Osho –
Tín Tâm Minh – Sách về cái Không
Chương
2: Đạo là hoàn hảo
Khi ý nghĩa sâu sắc của sự việc không
được hiểu thì an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng ích lợi gì.
Đạo là hoàn hảo như không gian bao la
nơi không gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính do việc chọn lựa của
chúng ta để chấp nhận hay bác bỏ mà chúng ta không thấy bản chất đúng của mọi sự
việc.
Sống không dính líu với sự việc bên
ngoài, không dính líu tới cảm giác bên trong về trống rỗng.
Chân thành không có hoạt động cố gắng
trong cái một của mọi sự, và cái nhìn sai lầm sẽ tự nó biến mất.
Khi cố gắng dừng hoạt động để đạt tới
tính thụ động, thì chính nỗ lực làm ông tràn đầy với hoạt động.
Chừng nào ông còn ở cực đoan này hay
cực đoan khác thì ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.
Những người không sống theo Đạo duy
nhất thì thất bại cả trong hoạt động và thụ động, khẳng định và phủ định.
Cần một vài điều
trước khi chúng ta đi vào lời kinh này của Tăng Xán. Tại phương Tây, mới vài
năm trước đây, có một nhà thôi miên người Pháp, Emile Coué; ông ấy ngẫu nhiên
khám phá ra một trong những luật cơ bản nhất của tâm trí con người. Ông ấy gọi
nó là “luật hiệu quả ngược” - đó là một trong những lời kinh cổ nhất trong tư
tưởng của Đạo giáo và Thiền. Tăng Xán đang nói về luật này. Cố gắng hiểu luật
này, thế thì lời của ông ấy sẽ đơn giản để hiểu.
Chẳng hạn, nếu
bạn không cảm thấy buồn ngủ bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ cố gắng để vào giấc ngủ - bạn
sẽ nỗ lực, bạn sẽ làm điều này điều nọ, nhưng bất kì cái gì bạn làm cũng chỉ
đem tới kết quả ngược lại; chính cái bạn cần thì không tới. Chỉ cái đối lập mới
xảy ra, bởi vì bất kì hoạt động nào, bất kì nỗ lực nào, cũng đều chống lại việc
ngủ.
Ngủ là sự thảnh
thơi. Bạn không thể đem nó lại, bạn không thể làm bất kì điều gì cho nó xảy ra.
Bạn không thể ép buộc nó, bạn không thể gò ép nó - nó không phải là một phần của
ý chí bạn chút nào. Nó đi vào trong vô ý thức, và ý chí của bạn chỉ là một mảnh
của ý thức.
Khi bạn đi vào
trong vô ý thức, hướng tới chiều sâu, thì mảnh vốn là ý thức, mảnh vốn là ý
chí, bị bỏ lại trên bề mặt. Bạn không thể đem bề mặt của mình xuống chiều sâu,
bạn không thể đem chu vi của mình vào trung tâm. Cho nên khi bạn nỗ lực đi vào
giấc ngủ, đó là điều tự phá hoại. Bạn đang làm điều gì đó mà sẽ trở thành chính
cái đối lập - bạn sẽ trở nên tỉnh nhiều hơn. Cách duy nhất để đi vào giấc ngủ
là không làm gì cả. Nếu nó không tới, thì nó không tới. Đợi đấy... đừng làm gì
cả! Bằng không bạn đang đẩy nó ra xa thêm và khoảng cách sẽ được tạo ra. Cứ đợi
trên gối, tắt đèn đi, nhắm mắt lại, thảnh thơi và chờ đợi. Bất kì khi nào nó tới,
thì nó tới. Bạn không thể đem nó lại bằng bất kì hành động nào theo ý chí của
mình - ý chí sẽ chống lại vô thức.
Và điều này xảy
ra trong nhiều sự việc trong cuộc sống: chỉ cái đối lập tới từ nó. Nếu bạn muốn
im lặng, bạn sẽ làm gì? Bởi vì im lặng cũng giống hệt như giấc ngủ. Bạn không
thể ép buộc nó. Bạn có thể cho phép nó xảy ra, nó là sự buông bỏ, nhưng không
có cách nào để làm cho nó làm việc. Bạn sẽ làm gì nếu bạn muốn im lặng? Nếu bạn
làm bất kì cái gì thì bạn sẽ lại ít im lặng hơn bao giờ hết.
Nếu bạn muốn
tĩnh lặng, bạn sẽ làm gì? - bởi vì tĩnh lặng có nghĩa là không làm. Bạn đơn giản
nổi lên, bạn đơn giản thảnh thơi! Và khi tôi nói đơn giản thảnh thơi, tôi ngụ ý
đơn giản. Không phương pháp nào cần dùng tới cho việc thảnh thơi, bởi vì phương
pháp lại có nghĩa là bạn đang làm điều gì đó.
Có một cuốn
sách; tựa đề của nó là Bạn phải thảnh thơi! Và ‘phải’ thì chống lại
thảnh thơi; cái ‘phải’ không nên được đưa vào, nếu không thì bạn sẽ trở
thành căng thẳng hơn.
Luật này đã được
Emile Coué phát minh ra, và ông ấy nói, “Để cho mọi sự xảy ra, đừng ép buộc
chúng.” Có những điều có thể bị ép buộc - tất cả những cái đó đều thuộc về ý thức,
tâm trí có thể bị ép buộc. Nhưng có những điều không thể bị ép buộc. Tất cả những
cái đó thuộc về vô thức, thuộc về chiều sâu của bạn, không thể bị ép buộc.
Điều đó xảy ra
nhiều lần: bạn đang cố gắng nhớ lại một cái tên hay một khuôn mặt và nó lại
không tới, nhưng bạn vẫn cảm thấy nó chỉ ngay trên đầu lưỡi mình. Cảm giác này
sâu sắc đến mức bạn cảm thấy nó sắp ra và bạn cố gắng đem nó ra. Và bạn càng cố
gắng nó lại càng không tới. Bạn trở nên hoài nghi liệu cảm giác đó có đúng hay
không. Nhưng bạn cảm thấy - toàn bộ con người bạn nói nó có đó, chỉ ngay trên đầu
lưỡi bạn. Nhưng sao nó lại không tới nếu nó đang trên đầu lưỡi bạn? Nó sẽ không
tới. Bạn cứ làm bất kì cái gì bạn muốn làm đi, nó sẽ không ra đâu.
Thế rồi bạn thất
vọng, thế rồi bạn cảm thấy vô vọng, thế rồi bạn vứt bỏ toàn bộ ý định này. Bạn
ra vườn, bạn bắt đầu làm việc trong vườn, hay bạn bắt đầu đọc báo, hay bạn bật
radio và nghe nhạc - và bỗng nhiên nó bật ra. Điều gì đã xảy ra?
Nó thuộc về vô
ý thức, nó ở sâu trong bạn. Và bạn càng cố gắng bạn càng trở thành chật hẹp; và
bạn càng cố gắng, vô thức càng bị quấy rối. Nó trở thành hỗn loạn, thế thì mọi
sự trở thành bất ổn. Nó đã có đó chỉ trên đầu lưỡi, nhưng bởi vì bạn quá tích cực
đem nó ra... bạn đã dùng ý chí, và ý chí không thể đem bất kì cái gì từ chiều
sâu của bạn ra được. Chỉ việc buông xuôi mới đem nó ra, chỉ khi bạn buông bỏ.
Cho nên khi bạn
đi vào công viên hay ra vườn, bắt đầu đọc báo, đào hố dưới đất, nghe nhạc, bạn
quên mất về toàn bộ ý định... thì bỗng nhiên nó có đó. Đây là luật hiệu quả ngược.
Với vô thức, nhớ lấy, ý chí là không có tác dụng - không chỉ không tác dụng, nó
cũng còn nguy hiểm nữa, có hại nữa.
Lão Tử, Trang Tử,
Bồ đề đạt ma, Tăng Xán - họ là bậc thầy về luật hiệu quả ngược này. Và đây là sự
khác biệt giữa Yoga và Thiền. Yoga làm mọi nỗ lực còn Thiền lại không nỗ lực,
và Thiền đúng hơn bất kì Yoga nào. Nhưng Yoga lại hấp dẫn, bởi vì chừng nào bạn
còn liên quan tới làm thì đều dễ dàng - dù vất vả đến đâu, nhưng làm là dễ
dàng.
Không làm mới
khó. Nếu ai đó nói, “Đừng làm gì cả,” bạn lúng túng. Bạn lại hỏi, “Phải làm
gì?” Nếu ai đó nói, “Đừng làm gì cả,” đó là điều khó nhất cho bạn. Nó không nên
như vậy nếu bạn hiểu.
Không làm không
đòi hỏi phẩm chất nào cả. Làm có thể đòi hỏi phẩm chất, làm có thể đòi hỏi công
phu. Không làm không đòi hỏi công phu. Đó là lí do tại sao Thiền nói chứng ngộ
có thể xảy ra trong một khoảnh khắc - bởi vì đấy không phải là vấn đề về cách
đem nó lại, đấy là vấn đề về cách cho phép nó. Nó cũng hệt như ngủ: bạn thảnh
thơi và nó có đó, bạn thảnh thơi và nó bật ra. Nó đang vật lộn trong tim bạn để
đi ra. Bạn không cho phép nó bởi vì bạn có quá nhiều hoạt động trên bề mặt.
Bạn đã bao giờ
để ý tới sự kiện là gần như chín mươi phần trăm trẻ con đều được sinh ra ban
đêm, không trong ban ngày không? Tại sao? Đáng ra là phải năm mươi - năm mươi
chứ. Tại sao chúng lại chọn ban đêm nhiều hơn? Và chín mươi phần trăm! Bởi vì
người mẹ vô ý thức, trong sự buông bỏ. Cô ấy đang ngủ và đứa trẻ có thể ra một
cách dễ dàng.
Nếu cô ấy nhận
biết, cô ấy sẽ nỗ lực và luật hiệu quả ngược sẽ có đó. Khi người mẹ tỉnh cô ấy
sẽ làm mọi nỗ lực để cô ấy vượt ra ngoài nỗi đau và sự việc kết thúc, đứa trẻ
được sinh ra. Và mọi nỗ lực đều là rào chắn; cô ấy dựng lên cản trở. Cô ấy càng
cố, bước chuyển càng hẹp lại, và đứa trẻ không thể ra được.
Trong các xã hội
nguyên thuỷ, người mẹ không đau khi họ sinh con, không đau chút nào. Và đây là
phép màu. Khi lần đầu tiên y học phương Tây khám phá ra điều này- rằng có những
xã hội nguyên thuỷ nơi người mẹ không đau chút nào - họ không thể tin vào điều
đó được. Làm sao điều ấy lại có thể được?
Thế rồi nhiều
thực nghiệm đã được tiến hành, nhiều dự
án nghiên cứu, và người ta đã phát hiện ra rằng đấy là vì họ vô ý thức. Họ sống
như con vật hoang; không có tranh đấu, không ép buộc. Họ không bó buộc gì, họ
đơn giản nổi lên. Họ nguyên thuỷ, họ không có tâm trí rất ý thức. Càng văn minh
ý chí bạn càng được huấn luyện, và vô thức của bạn đi càng xa hơn, sâu hơn, và
có lỗ hổng.
Nếu có điều gì
đó phải làm, dù khó đến đâu, bạn vẫn có thể tìm ra cách thức, cách thực hiện
nó. Bạn có thể học kĩ thuật; có các chuyên gia, bạn có thể được huấn luyện.
Nhưng trong Thiền không ai có thể được huấn luyện cả. Trong Thượng đế không có
chuyên gia và không có người có thẩm quyền - không thể thế được, bởi vì đấy
không phải là vấn đề cách thức, đấy là vấn đề thảnh thơi trong con người bạn,
không làm gì cả. Điều vĩ đại nhất sẽ xảy ra cho bạn chỉ khi bạn không có đó. Và
nếu bạn đang làm điều gì đó, bạn nhất định là có đó.
Giấc ngủ tới
khi bạn không có đó. Chứng ngộ cũng đi theo cùng qui tắc - nó tới khi bạn không
có đó. Nhưng khi bạn đang làm, làm sao bạn sẽ vắng mặt đồng thời được? Nếu bạn
đang làm điều gì đó, bạn sẽ có đó. Hành động nuôi dưỡng cho bản ngã. Khi bạn
không làm gì cả, bản ngã không thể nào được nuôi dưỡng. Nó đơn giản biến mất,
nó chết, nó không có đó. Và khi bản ngã không có đó, ánh sáng giáng xuống.
Cho nên bất kì
điều gì bạn làm một cách có ý chí đều sẽ là rào chắn. Trong việc thiền của tôi ở
đây, làm chúng, nhưng đừng theo cách có ý chí. Đừng ép buộc chúng; thay vì thế,
để cho chúng xảy ra. Nổi trong chúng, bỏ bản thân mình trong chúng. Bị hấp thu,
nhưng không có ý chí. Đừng thao túng, bởi vì khi bạn thao túng, bạn bị phân
chia, bạn trở thành hai: người thao tác và cái bị thao tác. Một khi bạn là hai,
thiên đường và địa ngục lập tức được tạo ra; thế thì có khoảng cách bao la giữa
bạn và chân lí. Đừng thao túng, cho phép mọi sự xảy ra.
Nếu bạn đang tập
Thiền Kundalini, cho phép việc rung động - đừng làm điều đó! Đứng im lặng, cảm
thấy nó tới, và khi thân thể bạn bắt đầu chút ít rung rinh, giúp nó, nhưng đừng
làm nó! Tận hưởng nó, cảm thấy phúc lạc về nó, cho phép nó, đón nhận nó, chào mừng
nó, nhưng không bắt ép nó.
Nếu bạn ép buộc,
nó sẽ trở thành bài tập, bài tập thể dục. Thế thì việc rung động sẽ có đó,
nhưng chỉ trên bề mặt. Nó sẽ không thấm vào bạn. Bạn sẽ vẫn còn cứng nhắc, tựa
hòn đá, tảng đá bên trong. Bạn sẽ vẫn còn là người thao tác, người làm, và thân
thể sẽ chỉ tuân theo. Thân thể không là vấn đề, bạn mới là vấn đề.
Khi tôi nói
rung động, tôi ngụ ý cái cứng nhắc của bạn, con người tựa tảng đá của bạn nên
rung động tới chính nền tảng, để cho nó trở thành chất lỏng, linh động, tan chảy,
luồng chảy. Và khi con người tựa tảng đá trở thành linh động, thân thể bạn sẽ
theo sau. Thế thì không có người rung động, chỉ có việc rung; thế thì không ai
làm nó, nó đơn giản xảy ra. Thế thì người làm không có.
Tận hưởng nó,
nhưng đừng ép buộc nó. Và nhớ, bất kì khi nào bạn ép buộc điều gì, bạn không thể
tận hưởng nó được. Chúng là đảo ngược lại, chúng là đối lập; chúng chưa bao giờ
gặp gỡ. Nếu bạn ép buộc một điều, bạn không thể tận hưởng nó, nếu bạn tận hưởng
nó, bạn không thể ép buộc nó.
Chẳng hạn, bạn
có thể ép buộc tình yêu của mình. Bạn có thể làm nó theo sách hướng dẫn, nhưng
thế thì bạn sẽ không tận hưởng nó. Nếu bạn tận hưởng nó, bạn sẽ phải vứt tất cả
sách hướng dẫn đi; tất cả Kinsey và các thầy và Johnson, bạn phải ném tất cả họ
đi. Bạn phải quên hoàn toàn về tất cả những điều bạn đã học về tình yêu. Ngay
chỗ ban đầu bạn sẽ lúng túng, bởi vì không có hướng dẫn, không bản đồ. Làm sao
bắt đầu?
Chỉ đợi thôi...
và để cho năng lượng bên trong của bạn chuyển động, và theo năng lượng đó dù nó
đưa đến bất kì đâu. Có thể mất chút thời gian, nhưng khi tình yêu tới, nó xảy tới
bất thình lình cho bạn. Bạn không còn đó nữa. Tình yêu có đó nhưng không có người
yêu. Tình yêu xảy ra như năng lượng, nhưng nó không có bản ngã bên trong. Thế
thì nó mênh mông, thế thì nó là giải thoát lớn lao. Và thế thì tình yêu trở
thành niềm cực lạc, và bạn biết điều gì đó mà đã từng được biết tới cho những
người đã đi tới điều thiêng liêng. Bạn biết một mảnh của nó, một giọt nước của
đại dương. Bạn biết một tia sáng - và thế rồi mùi vị tới với bạn.
Thiền, Thượng đế,
chứng ngộ, niết bàn, tất cả chúng đều đi vào trong bản thể qua tình yêu, bởi vì
qua tình yêu một thoáng nhìn được đạt tới. Và khi thoáng nhìn đó có đó, các
linh hồn bạo dạn lên đường phiêu lưu để tìm tới cội nguồn mà từ đó thoáng nhìn
này tới. Qua tình yêu, Thượng đế được khám phá ra. Đó là lí do tại sao Jesus cứ
nói mãi... bất kì khi nào ai đó hỏi, “Thượng đế là gì?” ông ấy đều nói, “Thượng
đế là tình yêu,” bởi vì qua tình yêu thoáng nhìn đầu tiên tới.
Nhưng tiến
trình này là một: bạn không thể gò ép tình yêu được. Nếu bạn gò ép, toàn bộ cái
đẹp bị mất, toàn bộ mọi sự trở thành máy móc. Bạn trải qua toàn bộ các nghi lễ,
nhưng chẳng cái gì xảy ra cả. Không có niềm cực lạc - nó là cái gì đó được làm
và được kết thúc. Nó chưa bao giờ đạt tới trung tâm của bạn, nó chưa bao giờ
làm rung chuyển nền tảng của bạn, nó chưa bao giờ trở thành điệu vũ bên trong.
Nó không làm thổn thức bản thể bạn, nó chỉ là hành động ở ngoại vi.
Nhớ lấy, yêu
không thể bị gò ép, và thiền không bao giờ có thể bị gò ép.
Vứt mọi tri thức
đi, bởi vì tri thức chỉ cần khi bạn phải làm điều gì đó. Khi bạn không phải làm
điều gì, cần gì tri thức? Bạn không cần tri thức nào cả. Bạn chỉ cần có cái cảm,
cái khéo - làm sao để vứt bỏ, làm sao để không hiện hữu. Và khi tôi nói ‘làm
sao’ tôi không ngụ ý kĩ thuật, khi tôi nói ‘làm sao’ tôi không ngụ ý rằng bạn phải
biết kĩ thuật. Bạn chỉ đơn giản tìm nó thôi.
Tôi sẽ gợi ý
hai điều có ích. Một là ngủ: cố gắng tìm ra cách thức giấc ngủ xảy ra, cách thức
bạn rơi vào trong giấc ngủ. Bạn có thể có nghi lễ nhưng nghi lễ đó không tạo ra
giấc ngủ, nó có ích. Mọi người đều có nghi lễ. Trẻ nhỏ có cử chỉ riêng của nó,
nó có thể mút ngón tay. Điều đó không cho bạn giấc ngủ, nhưng nó có ích cho đứa
trẻ kia - nó đã tìm ra nghi lễ của riêng mình. Nếu bạn theo đứa trẻ đó, bạn sẽ
không rơi vào trong giấc ngủ.
Và điều tương tự
cũng là trường hợp cho mọi kĩ thuật thiền - mọi người đều tìm ra nghi lễ riêng
của mình. Nó có ích bởi vì nó cho bạn bầu không khí. Bạn tắt đèn, bạn thắp
hương trong phòng, bạn có kiểu gối nào đó, cao mức nào đó, mềm mức nào đó. Bạn
có kiểu chăn nào đó, bạn có tư thế nào đó. Tất cả những điều này đều có ích,
nhưng điều này không phải là nguyên nhân cho nó. Nếu ai đó khác theo nó, điều
này có thể trở thành cản trở. Người ta phải tìm ra nghi lễ riêng của mình.
Nghi lễ đơn giản
giúp cho bạn được thoải mái và chờ đợi. Và khi bạn thoải mái và chờ đợi, sự việc
xảy ra. Cũng giống như ngủ, Thượng đế tới với bạn, giống như Thượng đế, tình
yêu tới với bạn. Bạn không thể gò ép nó, bạn không thể bắt buộc nó.
Và toàn bộ cuộc
sống của bạn đã trở thành vấn đề bởi vì bạn đã học quá nhiều cách làm mọi việc.
Bạn đã trở thành rất hiệu quả trong mọi thứ máy móc bởi vì chúng có thể được
làm, nhưng bạn đã trở thành hoàn toàn không hiệu quả trong những điều mang tính
người, bởi vì chúng không thể được học và chúng không thể được làm một cách kĩ
thuật; bạn không thể trở thành chuyên gia hiệu quả trong chúng.
Bất kì khi nào
có một việc máy móc để làm, đều có thể có chỗ huấn luyện cho nó, nhưng tâm thức
không thể được huấn luyện. Và bạn cứ theo các guru, này nọ, để tìm kĩ thuật nào
đó, mật chú nào đó, để cho bạn trở nên được chứng ngộ ... Không có mật chú nào
có thể làm cho bạn chứng ngộ được.
Đây là mật chú:
Tăng Xán nói rằng bạn sẽ phải trở nên hiểu biết hơn - ít ý chí đi, nhiều buông
bỏ hơn; ít nỗ lực đi, nhiều vô nỗ lực hơn; ít làm từ ý thức đi, bơi nhiều trong
vô thức hơn.
Bây giờ cố gắng
hiểu lời kinh:
Khi ý nghĩa sâu
sắc của sự việc không được hiểu sự an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng
ích lợi gì.
Nếu bạn hiểu, sẽ
có an bình. Nếu bạn không hiểu, sẽ có rối loạn, căng thẳng và khổ sở. Bất kì
khi nào ai đó đang khổ sở, điều đó chứng tỏ người ấy còn chưa hiểu sự việc, ý
nghĩa sâu sắc hơn của sự việc.
Và bạn cứ đi buộc
tội người khác rằng vì họ mà bạn khổ sở. Không ai ở đây khổ sở vì người khác cả.
Bạn khổ sở vì
không hiểu biết của bạn hay hiểu lầm của bạn.
Chẳng hạn, ai
đó tới tôi - một người chồng, một người bố của năm đứa trẻ - và anh ta nói rằng
anh ta rất bị rối loạn bởi vì vợ cứ cãi cọ, cứ cố gắng lấn lướt anh ta và con
cái thì không nghe lời anh ta... “Mẹ đã trở nên quá ảnh hưởng và con cái toàn
nghe lời mẹ, chúng nó không nghe lời tôi. Tôi chẳng là ai cả và tôi đang khổ
quá. Thầy làm điều gì đó cho tôi đi. Qua ân huệ của thầy mà vợ tôi có thể hiểu
biết thêm chút ít chăng.”
Tôi nói, “Điều
đó không thể được. Qua ân huệ của tôi hay qua ân huệ của bất kì ai, người khác
không thể được làm hiểu biết hơn. Bạn mới có thể được làm cho hiểu biết hơn. Và
khi bạn yêu cầu sự hiểu biết của người khác, bạn làm lỡ toàn bộ vấn đề. Tại sao
vợ lại có vẻ chi phối thế? Cô ấy có vẻ chi phối bởi vì bạn cũng tranh giành để
chi phối. Nếu bạn không tranh giành để chi phối, cô ấy sẽ không có vẻ chi phối.
Đấy là tranh giành, bởi vì các bạn theo cùng mục tiêu. Và điều gì sai nếu trẻ
con theo mẹ? Nhưng bạn lại muốn trẻ con theo bạn - do đó mới có tranh giành.”
Cố hiểu đi! Mọi
người đều cố gắng chi phối. Đó là bản chất của bản ngã: làm mọi nỗ lực để chi
phối người khác. Dù người khác là chồng, là vợ, con cái hay bạn bè thì cũng chẳng
khác biệt gì - nhưng chi phối, tìm mọi cách thức và phương tiện để chi phối.
Và nếu mọi người
đều cố gắng chi phối và bạn cũng cố gắng chi phối, thì sẽ có tranh giành. Tranh
giành không phải bởi vì người khác đang cố chi phối, tranh giành bởi vì bạn
không cố gắng để hiểu cách thức bản ngã vận hành.
Vứt điều đó đi!
Người khác không thể thay đổi được, còn bạn sẽ phí cuộc đời mình không cần thiết
để cố gắng thay đổi người khác. Đó là vấn đề của họ. Họ sẽ đau khổ nếu họ không
hiểu biết, tại sao bạn phải đau khổ? Bạn đơn giản hiểu rằng mọi người đều đang
cố gắng chi phối: “Mình vứt bỏ nó, mình sẽ không cố gắng chi phối”... tranh
giành của bạn tan biến. Và một điều rất đẹp xảy ra.
Nếu bạn không cố
gắng chi phối, vợ bạn sẽ bắt đầu cảm thấy ngu xuẩn, và dần dần cô ấy bắt đầu thấy
mình ngốc nghếch - bởi vì người khác không có đó để mà tranh đấu. Khi bạn tranh
đấu, bạn làm mạnh thêm bản ngã của người khác, và điều này là cái vòng luẩn quẩn.
Khi bạn không
tranh đấu thế thì người khác cảm thấy họ tranh đấu một mình, trong chân không:
tranh đấu với gió hay tranh đấu với ma, nhưng không tranh đấu với người nào cả.
Và thế thì bạn trao cơ hội cho người khác cũng thấy, cũng hiểu biết. Thế thì vợ
không thể đổ trách nhiệm lên bạn được, cô ấy phải mang trách nhiệm của riêng
mình.
Cùng điều đó
cũng là vấn đề cho mọi người bởi vì bản chất con người vận hành tương tự nhau,
ít nhiều; khác biệt chỉ ở mức độ. Nếu bạn cố gắng hiểu, bạn trở thành người bỏ
nửa chừng. Không phải là bạn bỏ xã hội, không phải là bạn trở thành hippie và
ra đi lập hội đoàn - điều đó không phải là vấn đề. Về mặt tâm lí bạn không còn
trên con đường bản ngã này, chi phối, hung hổ, bạo hành, giận dữ. Bạn không còn
là một phần của nó. Thế thì khoảng cách được tạo ra, sự tách biệt. Bây giờ bạn
có thể nhìn vào mọi điều và bạn có thể cười... con người ngu xuẩn làm sao. Và bạn
có thể cười... bạn đã từng lố bịch làm sao.
Người ta kể về
Rinzai rằng khi ông ấy tỉnh dậy buổi sáng ông ấy sẽ cười to đến mức cả thiền viện
- năm trăm sannyasin ở đó - đều nghe thấy. Đến tối khi ông ấy đi ngủ, ông ấy lại
cười to lần nữa.
Nhiều người hỏi
tại sao, nhưng ông ấy chỉ đơn giản cười và ông ấy sẽ không trả lời. Khi ông ấy
sắp chết ai đó hỏi, “Có một điều: xin thầy nói cho chúng tôi tại sao thầy lại
cười hàng ngày, sáng và tối, cả đời thầy? Chẳng ai biết, và bất kì khi nào
chúng tôi hỏi thì thầy lại cười nữa. Đây là bí ẩn duy nhất. Xin thầy tiết lộ điều
đó trước khi thầy rời khỏi thân thể.”
Rinzai nói, “Ta
cười bởi vì cái ngu xuẩn của thiên hạ. Buổi sáng ta cười bởi vì bây giờ lần nữa
ta lại đi vào thế giới này và mọi người quanh ta đều ngu cả. Còn buổi tối ta cười
rằng một ngày đã qua hay thế!”
Bạn sẽ cười, bạn
sẽ không trong khổ sở. Toàn bộ sự việc xung quanh lố bịch thế, nhưng bạn lại
không thể thấy được nó bởi vì bạn là một phần của nó. Bạn tham dự quá nhiều
trong nó, bạn không thể thấy được nó. Cái lố bịch không thể nào được biết tới
trừ phi bạn có khoảng cách, sự tách biệt.
Tăng Xán nói:
Khi ý nghĩa sâu
sắc của sự việc không được hiểu an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng
ích lợi gì.
Và bạn chẳng
thu được gì, bạn chẳng đạt tới đâu, bạn đơn giản bị rối loạn. Bạn đã đạt tới
đâu? Bạn đã thu được gì bởi lo âu, căng thẳng, rối loạn? Bạn là cái gì? Bạn đi
đâu? Chẳng thu được gì... thậm chí nếu có thu được cái gì đó... thì cũng có thể
dường như là qua con người bị rối loạn của bạn mà thu được cái gì đó. Bạn chẳng
thu được cái gì cả. Ngược lại, bạn mất. Bạn mất những khoảnh khắc quí giá có thể
trở thành phúc lạc, thời gian quí giá, năng lượng, cuộc sống, trong đó bạn có
thể đã nở hoa. Và bạn lại không thể nở hoa.
Nhưng bạn bao
giờ cũng nghĩ - đây là quan điểm dốt nát - bạn bao giờ cũng nghĩ, “Toàn thế giới
sai, và nếu mình có thể thay đổi mọi người thế thì mình sẽ hạnh phúc.” Bạn sẽ
chẳng bao giờ hạnh phúc cả, bạn không thể hạnh phúc được - đây là cơ sở cho bất
hạnh. Một khi bạn hiểu ra rằng vấn đề cho bạn không phải là bạn thay đổi cả thế
giới, điều duy nhất mà bạn có thể làm là thay đổi bản thân mình.
Bayazid, nhà
huyền môn Sufi, đã viết trong tiểu sử của mình, “Khi tôi còn trẻ tôi đã nghĩ và
tôi đã nói với Thượng đế, và trong tất cả những lời cầu nguyện của tôi thì đây
là điều cơ sở: ‘Xin cho con năng lượng để cho con có thể thay đổi toàn thế giới.’
Mọi người đều nhìn sai về tôi. Tôi là nhà cách mạng và tôi muốn thay đổi bộ mặt
của trái đất.
Khi tôi trở nên
chín chắn hơn chút ít tôi bắt đầu cầu nguyện: ‘Điều này dường như quá nhiều. Cuộc
sống đang tuột khỏi tay con - gần như nửa đời con đã trôi qua mà con chẳng thay
đổi được lấy một người, và toàn thế giới thì quá nhiều.’ Cho nên tôi nói với
Thượng đế, ‘Gia đình con là đủ. Để con thay đổi gia đình con.’
“Và khi tôi trở
nên già,” Bayazid nói, “Tôi hiểu rằng ngay cả gia đình cũng là quá nhiều, và
tôi là ai mà thay đổi họ? Thế rồi tôi nhận ra rằng nếu tôi có thể thay đổi bản
thân mình thì thế cũng sẽ đủ, còn quá đủ. Tôi đã cầu nguyện Thượng đế, ‘Bây giờ
con mới đi tới đúng điểm. Ít nhất cho phép con làm điều này: con muốn thay đổi
bản thân mình.’
“Thượng đế đáp,
‘Bây giờ không còn thời gian nữa. Điều này con đáng phải hỏi ngay từ đầu kia.
Thế thì mới có khả năng.’”
Điều này, mọi
người đều hỏi lúc cuối cùng. Người hỏi lúc ban đầu, người ấy đã hiểu bản chất của
mọi sự việc. Người ấy hiểu rằng thậm chí thay đổi bản thân mình cũng không phải
là điều dễ dàng. Bạn là toàn bộ thế giới bên trong mình; bạn mang toàn bộ thế
giới. Tất cả những cái tồn tại, đều tồn tại bên trong bạn. Bạn là toàn bộ vũ trụ
này, không phải là điều nhỏ đâu - nếu sự thay đổi này có thể xảy ra thì bạn đã
đạt tới. Nếu không:
Khi ý nghĩa sâu
sắc của sự việc không được hiểu an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng
ích lợi gì.
Đạo là hoàn hảo
như không gian bao la nơi không gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính
do việc chọn lựa của chúng ta để chấp nhận hay bác bỏ mà chúng ta không thấy bản
chất đúng của mọi sự việc.
Đạo là hoàn hảo
như không gian bao la nơi không gì thiếu và không gì thừa...
Mọi sự đều như
nó đáng phải thế; bạn chỉ phải lắng đọng vào trong nó, bạn chỉ không bị quấy rối.
Mọi sự đều như nó đáng phải thế... chẳng cái gì thiếu và chẳng cái gì thừa.
Bạn có thể nghĩ
được một vũ trụ tốt hơn thế này không? Nếu bạn trí huệ, bạn không thể; nếu bạn
ngu đần bạn có thể đấy. Chẳng cái gì có thể tốt hơn thế này, như nó hiện thế. Vấn
đề duy nhất là bạn không lắng đọng trong nó. Lắng đọng trong nó đi và con đường
là hoàn hảo, giống như không gian bao la, và chẳng cái gì thiếu chẳng cái gì thừa.
Mọi sự đều cân bằng. Chỉ bạn mới là vấn đề; thế giới không phải là vấn đề chút
nào.
Đây là khác biệt
giữa tâm trí chính trị và tâm trí tôn giáo, và các bạn tất cả đều mang tâm trí
chính trị. Tâm trí chính trị nghĩ, “Mình hoàn toàn tốt, mọi thứ khác đều sai cả.”
Cho nên người ta bắt đầu thay đổi thế giới - một Lenin, một Gandhi, một Hitler,
một Mao.
Tâm trí chính
trị nghĩ, “Mọi sự đều sai. Nếu mọi sự được giải quyết thế thì nó sẽ đẹp.”
Tâm trí tôn
giáo nghĩ, “Chỉ mình là chưa ổn. Ngoài ra, mọi sự đều hoàn hảo như nó có thể.”
Hoàn hảo là con
đường tựa như không gian bao la: chẳng cái gì thiếu và chẳng cái gì thừa. Mọi sự
đều như nó đáng phải thế, hoàn toàn cân bằng. Chỉ bạn là vẩn vơ, chỉ bạn không
biết phải đi đâu, chỉ bạn là bị phân chia. Nghĩ xem: nếu con người biến mất khỏi
trái đất, thế giới sẽ hoàn toàn hoàn hảo, tuyệt đối đẹp - sẽ không có vấn đề
gì.
Vấn đề tới với
con người, bởi vì cách thức con người nhìn vào mọi thứ có thể đi sai - bởi vì
con người có ý thức, và ý thức đó tạo ra rắc rối. Bởi vì bạn có thể có ý thức,
nên bạn có thể phân chia mọi thứ. Bởi vì bạn có thể có ý thức nên bạn có thể
nói, “Cái này phải và cái kia trái.” Bởi vì bạn có thể có ý thức nên bạn có thể
nói, “Cái này xấu và cái kia đẹp.”
Việc có ý thức
này là không đủ. Nếu nó trở nên nhiều hơn, nếu nó trở thành vòng tròn, ý thức
hoàn chỉnh, thế thì lần nữa mọi sự lại được giải quyết.
Nietzsche đã
nói - và ông ấy tỏ ra có nhiều sáng suốt - ông ấy đã nói rằng con người là cây
cầu, con người không phải là một sinh linh. Con người là cây cầu, cái gì đó để
vượt ra ngoài. Bạn không thể làm nhà trên cầu được. Đó là điều Jesus nói: “Đi
qua nó. Đừng làm nhà trên nó, nó chỉ là cây cầu.” Câu của Nietzsche là: “Con
người chỉ là cây cầu giữa hai điều vĩnh hằng, điều vĩnh hằng của tự nhiên và điều
vĩnh hằng của Thượng đế.”
Mọi sự đều tốt
trong tự nhiên, mọi sự đều tốt trong Thượng đế. Con người là cây cầu, con người
ở giữa, nửa tự nhiên, nửa Thượng đế - đó là điều rắc rối. Bị phân chia, quá khứ
thuộc về tự nhiên, tương lai thuộc về Thượng đế. Căng thẳng, giống như sợi dây bắt ngang giữa hai điều vĩnh hằng, khi
thì chuyển về tự nhiên, khi thì chuyển về Thượng đế, khi thì cách này, khi thì
cách nọ; run rẩy và vẩn vơ thường xuyên,
không lắng đọng.
Trở nên lắng đọng,
và cả hai cách sẽ có tác dụng. Trang Tử thiên về được lắng đọng lại vào tự
nhiên. Nếu bạn lắng đọng vào tự nhiên, bạn trở thành giống thần, bạn trở thành
thần. Phật thiên về việc đi lên trước và trở thành Thượng đế, thế thì bạn sẽ được
lắng đọng. Hoặc là đi ngược lại hoặc là đi tới tận cùng, nhưng đừng dừng ở trên
cầu.
Và đây là điều
cần phải hiểu - một trong những điều rất có ý nghĩa, một trong những điều nền tảng
- là dù bạn đi lùi hay đi tiến, bạn cũng đạt tới cùng mục đích. Vấn đề không phải
là lùi lại hay tiến lên, vấn đề là không ở trên cầu.
Lão Tử, Trang Tử,
họ nói rơi lại vào tự nhiên, vào Đạo. Shankara, Phật, Jesus, họ nói đi lên trước,
đi qua cầu, đạt tới điều thiêng liêng. Điều này có vẻ rất nghịch lí, nhưng
không phải thế - bởi vì cả hai bờ đều là một, bởi vì cây cầu này là vòng tròn.
Dù bạn đi ngược
hay đi xuôi, bạn cũng đều đạt tới cùng mục đích, cùng điểm thoải mái, dù bạn chọn
lối nào. Nếu bạn cảm thấy rằng buông bỏ là không thể được với bạn, thế thì theo
Patanjali - nỗ lực, ý chí, cố gắng, tìm kiếm - thế thì bạn sẽ tiến lên trước. Nếu
bạn cảm thấy rằng bạn có thể hiểu luật hiệu quả ngược, không chỉ hiểu mà còn để
cho nó xảy ra bên trong bạn, thế thì theo Tăng Xán, Trang Tử: đi lùi lại. Nhưng
đừng đứng nguyên tại chỗ của mình; trên cầu bạn sẽ bị phân chia. Bạn không thể
thoải mái ở đó được, bạn không thể làm nhà tại đó được. Cây cầu không phải là
chỗ để làm nhà. Nó không phải là mục đích, nó chỉ là cái gì đó để đi qua.
Nietzsche nói
con người là cái gì đó cần được siêu việt lên, con người không là sự hiện hữu.
Con vật có sự hiện hữu, Thượng đế có sự hiện hữu, con người còn chưa hiện hữu.
Con người chỉ là sự chuyển tiếp, một giai đoạn chuyển đổi, việc chuyển từ hoàn
hảo này sang hoàn hảo khác. Ở giữa, con người bị phân chia.
Tăng Xán nói
lùi lại, và nếu bạn hỏi tôi thì tôi sẽ nói Tăng Xán là dễ dàng hơn Patanjali.
Cùng một điều sẽ xảy ra ở cuối. Nhiều nỗ lực sẽ đưa bạn tới vô nỗ lực, không nỗ
lực cũng đưa bạn tới vô nỗ lực - bởi vì nỗ lực không bao giờ có thể là mục
đích, nỗ lực chỉ có thể là phương tiện. Bạn không thể cứ nỗ lực mãi mãi và mãi
mãi được. Bạn nỗ lực để đạt tới trạng thái vô nỗ lực.
Với Patanjali,
nỗ lực là con đường, vô nỗ lực là mục đích; nỗ lực là phương tiện, vô nỗ lực là
mục đích. Với Tăng Xán vô nỗ lực là phương tiện, vô nỗ lực là mục đích. Với
Tăng Xán bước đầu tiên là bước cuối cùng; với Tăng Xán không có phân biệt giữa
phương tiện và mục đích. Nhưng với Patanjali thì có - bạn phải thực hiện nhiều
bước.
Cho nên với
Patanjali chứng ngộ sẽ là dần dần. Với Tăng Xán chứng ngộ có thể là tức khắc,
trong chính khoảnh khắc này - nó có thể là bất thần. Nếu bạn có thể hiểu Tăng
Xán thế thì không có gì đẹp hơn điều đó. Nhưng nếu bạn không thể hiểu được, thế
thì Patanjali là con đường duy nhất.
Đạo là hoàn hảo
như không gian bao la nơi không gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính
do việc chọn lựa của chúng ta để chấp nhận hay bác bỏ mà chúng ta không thấy bản
chất đúng của mọi sự việc.
Bởi vì chúng ta
chấp nhận hay bác bỏ, đó là lí do tại sao chúng ta không thể thấy bản chất thực.
Thế thì bạn đem ý tưởng của mình, ý kiến, định kiến vào, và thế thì bạn tô mầu
mọi thứ. Ngoài ra mọi thứ đều hoàn hảo. Bạn chỉ phải nhìn. Thuần khiết. Cái
nhìn không ý tưởng nào, cái nhìn không bác bỏ gì. Chấp nhận. Cái nhìn thuần khiết,
dường như mắt bạn không có tâm trí đằng sau chúng, dường như mắt bạn chỉ là tấm
gương: chúng không nói, “Đẹp. Xấu.” Tấm gương đơn giản phản chiếu bất kì ai tới
trước nó - nó không phán xét.
Nếu mắt bạn
không có tâm trí đằng sau, chúng chỉ là tấm gương. Chúng đơn giản nhìn. Chúng
không nói, “Cái này tốt và cái kia xấu” - chúng không kết án, chúng không ca ngợi.
Thế thì mọi thứ rõ ràng như nó có thể vậy, chẳng có gì phải làm cả. Sự sáng tỏ
này, đôi mắt này không ý kiến và định kiến - và bạn đã trở nên chứng ngộ.
Thế thì không
có vấn đề gì phải giải quyết cả. Thế thì cuộc sống không còn là câu đố nữa. Nó
là bí ẩn để được sống, tận hưởng, điệu vũ để được múa. Thế thì bạn không trong
xung đột với nó, thế thì bạn không làm bất kì cái gì ở đây. Thế thì bạn đơn giản
hưởng thú, thế thì bạn phúc lạc.
Đây là điều
thiên đường nghĩa là gì: nơi bạn không bị trông đợi phải làm gì cả, nơi bạn
không cố gắng kiếm phúc lạc - nơi phúc lạc là tự nhiên, nơi nó mưa rào lên bạn.
Điều này có thể xảy ra ở đây và bây giờ. Nó đã xảy ra cho Tăng Xán, nó đã xảy
ra cho tôi, nó có thể xảy ra cho bạn. Nếu nó có thể xảy ra cho một người, nó có
thể xảy ra cho tất cả mọi người.
Sống không dính
líu với sự việc bên ngoài, không dính líu tới cảm giác bên trong về trống rỗng.
Chân thành
không có hoạt động cố gắng trong cái một của mọi sự, và cái nhìn sai lầm sẽ tự
nó biến mất.
Đừng phân chia
bên ngoài với bên trong. Tăng Xán nói, “Đừng nói, ‘Tôi quan tâm tới cái bên
ngoài.’” Có hai kiểu người, và cả hai đều khổ sở. C.G. Jung chia nhân loại
thành hai kiểu: một kiểu ông ấy gọi là người hướng ngoại, kiểu kia ông ấy gọi
là người hướng nội. Người hướng ngoại quan tâm tới cái bên ngoài. Họ là người
tích cực, trần tục - theo đuổi của cải, danh vọng, địa vị, quyền lực. Họ trở
thành chính khách, họ trở thành nhà cải cách xã hội, họ trở thành người lãnh đạo
lớn, nhà công nghiệp lớn. Họ quan tâm tới các sự vật, thế giới bên ngoài; họ
không quan tâm tới bản thân mình.
Thế rồi có những
người hướng nội. Họ là những người không tích cực mấy. Nếu họ phải làm điều gì
đó thì họ sẽ làm, ngoài ra họ không nghiêng về làm. Họ sẽ thích vẫn còn đấy với
mắt nhắm. Họ trở thành nhà thơ, nhà huyền môn, thiền nhân, người trầm tư. Họ
không quan tâm tới thế giới này, họ chỉ quan tâm tới bản thân mình; họ nhắm mắt
lại và họ hướng nội năng lượng của mình. Nhưng Tăng Xán nói cả hai kiểu người
này đều sai bởi vì họ bị phân chia.
Người hướng ngoại
bao giờ cũng cảm thấy rằng ở bên trong cái gì đó bị thiếu. Người ấy có thể trở
thành người rất quyền lực: sâu bên trong người ấy sẽ cảm thấy mình bất lực,
không quyền hành. Bên ngoài người ấy có thể tích luỹ nhiều của cải, bên trong
người ấy sẽ cảm thấy nghèo nàn. Người ấy có thể là người thành công lớn trong
thế giới này; sâu bên dưới, nếu bạn hỏi, người ấy biết người ấy đã là kẻ thất bại.
Người ấy không cân bằng, người ấy đã dồn chú ý quá nhiều ra bên ngoài. Người ấy
đã chuyển vào một cực đoan, và bất kì khi nào có cực đoan thì có mất cân bằng.
Và người mà đã
là nhà thơ, người suy tư, nhà huyền môn, người bao giờ cũng còn lại bên trong bản
thân mình, bao giờ cũng cảm thấy cái gì đó bị thiếu, bởi vì người ấy không giầu
trong thế giới bên ngoài. Và thế giới bên ngoài cũng đẹp. Hoa có đó, và những
vì sao, và mặt trời lên phía kia, và dòng sông tuôn chảy và thác nước reo. Người
ấy nghèo nàn bởi vì người ấy đã chối bỏ toàn bộ vũ trụ; không cần thiết, người ấy
đã sống trong cái hang riêng của mình, nơi người ấy có thể đã di chuyển và đã
biết nhiều bí ẩn, hàng triệu bí ẩn xung quanh. Người ấy vẫn còn khép kín, nhốt
trong bản thân mình, bị cầm tù. Hai kiểu người này là các cực đoan.
Tránh các cực
đoan. Đừng tạo ra phân biệt giữa bên ngoài và bên trong, và đừng trở thành một
trong các kiểu người của Jung, hoặc hướng ngoại hoặc hướng nội.
Tăng Xán nói:
Tuôn chảy, cân bằng. Bên ngoài và bên trong giống như chân phải và chân trái. Tại
sao lại chọn một? Nếu bạn chọn một, tất cả chuyển động đều dừng lại. Chúng giống
như hai mắt: nếu bạn chọn một thế thì bạn sẽ có thể thấy, nhưng tầm nhìn của bạn
không còn là ba chiều nữa, chiều sâu bị mất. Bạn có hai tai: bạn có thể dùng một,
bạn có thể bị nghiện với ý tưởng rằng bạn là kiểu người tai trái hay tai phải,
nhưng thế thì bạn mất. Thế thì một nửa thế giới bị khép lại với bạn.
Bên trong và
bên ngoài chỉ là hai mắt, hai tai, hai chân - tại sao lại chọn? Tại sao không
dùng cả hai một cách vô chọn lựa? Và tại sao phân chia? Bởi vì bạn là một! Chân
trái và chân phải chỉ dường như là hai thôi. Bạn tuôn chảy bên trong cả hai -
cùng năng lượng ấy, cùng con người ấy. Bạn nhìn qua cả hai mắt. Tại sao không
dùng bên trong và bên ngoài và cho chúng sự cân bằng? Tại sao lại chuyển về cực
đoan?
Nhớ lấy, không
chỉ mọi người chuyển về cực đoan đâu, xã hội cũng chuyển về cực đoan. Phương
Đông vẫn còn hướng nội, do đó mới nghèo khó. Ai chịu trách nhiệm cho điều đó?
Hàng triệu người đang chết hàng ngày. Và những người đang sống, họ cũng không sống
đâu - họ một nửa chết đói. Ai chịu trách nhiệm cho điều này? - người hướng nội,
nhà huyền môn, nhà thơ, người cứ nói quá nhiều về bên trong và người lên án bên
ngoài, người nói, “Bên ngoài không dành cho chúng ta”; người nói, “Bên ngoài là
sai”; người nói, “Thế giới bên ngoài là cái gì đó phải lên án. Sống ở thế giới
bên trong.” Họ nâng bên trong lên cao hơn bên ngoài, và cân bằng bị mất.
Phương Đông đã
tạo ra người hướng nội, nhưng cái đẹp bên ngoài bị mất. Bạn thấy bẩn thỉu ở khắp
nơi phương Đông. Tôi biết thật là khó khăn lắm cho người phương Tây tới sống
trong cái bẩn thỉu của Ấn Độ. Nó bẩn thật - ai chịu trách nhiệm? Tại sao lại
nhiều bẩn thỉu thế? Tại sao lại nhiều bệnh tật thế? Tại sao lại nhiều ốm yếu,
chết đói thế? - bởi vì bên ngoài đã bị lãng quên.
Chúng ta đã
quan tâm tới việc làm thuần khiết bên trong, cho nên: “Tại sao phải bận tâm về
cái bẩn thỉu bên ngoài? Cứ để nó thế. Nó là vật chất, chẳng đáng lo nghĩ tới.
Chúng ta quan tâm tới sự thuần khiết bên trong. Tại sao phải bận tâm về thân thể?
Tại sao phải bận tâm về người khác?”
Kết quả là ở chỗ
phương Đông là một loại mất cân bằng. Và phương Tây lại là một loại khác: họ là
người hướng ngoại. Họ đã tạo ra nhiều của cải mà chưa từng được tạo ra trước
đây, nhiều sạch sẽ bên ngoài. Quần áo tốt hơn - vua cũng phải ghen tị - thức ăn
tốt hơn, điều kiện vệ sinh hơn, môi trường bao quanh đẹp, mọi thứ, nhưng hướng
ngoại. Và con người bên trong lại nghèo nàn, con người bên trong trống rỗng.
Cho nên phương
Đông cứ thuyết giảng cho phương Tây về con người bên trong. Các guru phương
Đông cứ thuyết giảng cho phương Tây về cách thiền, và các guru phương Tây cứ giảng
dạy cho phương Đông về cách là kĩ sư tốt hơn, cách là thợ điện tốt hơn, cách là
người lập qui hoạch thành phố tốt hơn, cách tạo ra nhiều của cải hơn, cách tăng
tiến về công nghệ, cách nâng tiêu chuẩn sống. Cho nên nếu bạn phải học về thuốc
thì bạn phải sang phương Tây; nếu bạn phải học về thiền thì bạn phải tới phương
Đông.
Nhưng cả hai đều
là cực đoan và cả hai đều nguy hiểm. Cực đoan bao giờ cũng nguy hiểm. Và nguy
hiểm là ở chỗ bánh xe có thể quay, và phương Đông có thể trở thành duy vật còn
phương Tây có thể trở thành duy tâm. Có mọi khả năng rằng điều này sắp xảy ra,
bởi vì bây giờ phương Đông đang chuyển thành cộng sản - đó là cực đoan của chủ
nghĩa duy vật - còn phương Tây đang trở thành duy tâm quá nhiều. Mối nguy hiểm
có đó: bánh xe có thể quay, bởi vì bạn đã chán ngán với thế giới bên ngoài nên
bạn muốn chuyển vào bên trong, bạn cần cuộc hành trình bên trong.
Bạn có thể cứ
theo cuộc hành trình bên trong. Nhìn kẻ hippie; họ là tương lai của phương Tây.
Họ đang chống lại công nghệ - cùng kiểu, kiểu người hướng nội đã tàn phá toàn bộ
phương Đông, kiểu người đã gây thảm hoạ cho phương Đông. Họ chống lại công nghệ,
họ chống lại sạch sẽ bên ngoài. Bạn không thể tìm được người nào bẩn hơn người
hippie đâu; họ sẽ không tắm, họ sẽ không thay quần áo. Họ nói đấy là những thứ
bên ngoài - họ đang theo cuộc hành trình bên trong. Họ quan tâm tới thiền,
nhưng họ không quan tâm tới vệ sinh. Không... cùng cái ngu xuẩn ấy, cùng cái cực
đoan ấy, cùng cái đối lập ấy. Nó hấp dẫn, bởi vì khi bạn đã sống trên một cực
đoan thì tâm trí nói, “Bây giờ chuyển sang bên kia đi bởi vì bên này không thoả
mãn. Cực đoan này đã sai, cho nên chuyển sang cái đối lập.” Nhưng nhớ, dễ dàng
chuyển từ cực đoan này sang cực đoan kia, nhưng cực đoan không bao giờ thoả mãn
cả. Nhìn phương Đông mà xem, cực đoan bên trong đã không là sự thoả mãn, nó đã
là một thất bại. Vấn đề không phải là bên ngoài hay bên trong, vấn đề là ở sự
cân bằng. Cân bằng thì thành công, mất cân bằng thì thất bại.
Và bên ngoài và
bên trong không phải là hai. Bên ngoài kết thúc ở đâu và bên trong bắt đầu ở
đâu? Bạn có thể đánh dấu, bạn có thể tạo ra biên giới được không? Bạn có thể
nói, “Đây là chỗ bên ngoài kết thúc và chỗ bên trong bắt đầu được không?” Tại
đâu? Chúng không phân chia. Những phân chia đó là của tâm trí. Bên trong và bên
ngoài là một: bên ngoài chỉ là bên trong kéo dài, bên trong chỉ là bên ngoài thấm
vào. Chúng là một - hai tay, hai chân, hai mắt của một con người.
Liệu bên ngoài
có ở ngoài Thượng đế không? Nó không thể thế, bởi vì chẳng cái gì có thể ở bên
ngoài Thượng đế được cả, không cái gì có thể ở bên ngoài ngài. Cái toàn thể phải
bao gồm cái bên ngoài và cái toàn thể phải bao gồm cái bên trong. Với cái toàn
thể thì không có gì giống bên ngoài và không có gì giống bên trong cả. Đây là
điều Tăng Xán nói. Ông ấy nói:
Sống không dính
líu với sự việc bên ngoài, không dính líu tới cảm giác bên trong về trống rỗng.
Chân thành
không có hoạt động cố gắng trong cái một của mọi sự, và cái nhìn sai lầm sẽ tự
nó biến mất.
Mọi người tới
tôi - và tâm trí tinh ranh thế - họ tới tôi và họ nói, “Chúng tôi muốn nhận
tính chất sannyas nhưng chúng tôi muốn sannyas bên trong, không bên ngoài.
Chúng tôi sẽ không thay quần áo.” Và họ nói, “Tại sao lại bên ngoài? Để nó chỉ
là cái bên trong!” Họ không biết điều họ đang nói. Cái bên trong bắt đầu từ chỗ
nào?
Khi bạn ăn thức
ăn bạn chẳng hề nói, “Để nó là cái bên trong.” Khi bạn khát và bạn uống nước, bạn
không hề nói, “Để nó là cái bên trong. Cơn khát này là bên trong, cho nên sao
phải lấy nước từ bên ngoài?” Nhưng nước kết thúc ở đâu và cơn khát bắt đầu từ
đâu? Bởi vì nếu bạn uống nước thì cơn khát biến mất, cho nên điều đó có nghĩa
là sự gặp gỡ - đâu đó nước bên ngoài gặp gỡ cơn khát bên trong. Nếu không thì
làm sao nó có thể biến mất được?
Bạn cảm thấy
đói và bạn ăn thức ăn. Thức ăn là bên ngoài, cái đói là bên trong; với cái đói
bên trong tại sao lại lấy thức ăn bên ngoài? Tại sao lại ngu xuẩn thế? Phải lấy
cái gì bên trong chứ. Nhưng không có thức ăn bên trong. Cái đói là bên trong,
thức ăn là bên ngoài, nhưng đâu đó thức ăn đi vào. Nó thay đổi lãnh thổ: nó trở
thành máu của bạn, nó trở thành xương bạn. Nó trở thành chính chất liệu làm nên
tâm trí bạn, nó trở thành suy nghĩ của bạn.
Thức ăn trở
thành suy nghĩ của bạn. Và nếu thức ăn trở thành suy nghĩ của bạn, nhớ lấy, thức
ăn cũng sẽ trở thành vô ý nghĩ của bạn. Thức ăn trở thành tâm trí bạn, thức ăn
trở thành việc thiền của bạn. Không có tâm trí bạn có thể thiền được không?
Không có tâm trí thì làm sao bạn trở thành vô trí được? Không có suy nghĩ làm
sao bạn vứt bỏ suy nghĩ được? Tâm trí là thức ăn rất tinh tế, vô trí là thức ăn
tinh tế nhất - nhưng không có phân chia.
Cho nên khi bạn
muốn nhận tính chất sannyas, thì thậm chí mầu sắc cũng siêu việt lên trên lãnh
thổ. Nó bắt đầu từ bên ngoài và dần dần thấm vào sâu hơn. Nó tô mầu cho chính
con người bạn; thậm chí việc mặc quần áo cũng chạm vào linh hồn bạn. Nó phải
như vậy, bởi vì bên ngoài và bên trong không phải là hai, chúng là một. Một cử
chỉ đơn giản - nó có vẻ bên ngoài, nó đi vào trong chính con người, và nó đi tới
từ đó. Nhớ lấy, đừng chơi trò láu cá và đừng phân chia sự tồn tại. Nó là không
phân chia.
Khi bạn yêu một
người bạn sẽ muốn ôm ghì thân thể ấy. Bạn sẽ không nói, “Anh yêu em, nhưng anh
yêu em ở bên trong thôi.” Có một cô gái béo ở đây, béo lắm. Cô ấy bảo tôi, “Con
chỉ có mỗi một người bạn trai mà anh ấy cũng nói, ‘Anh chỉ yêu linh hồn em,
không yêu thân thể em.’”
Cô ấy cảm thấy
bị tổn thương lắm, bởi vì khi bạn nói với một người, “Anh chỉ yêu linh hồn em,
không yêu thân thể em,” thì điều đó có nghĩa gì? Khi bạn yêu một người, bạn yêu
một cách toàn bộ, bạn không thể tạo ra phân biệt. Đây là mánh khoé tinh ranh. Cậu
con trai đó thực sự không yêu cô gái này, anh ta đang chơi trò láu cá. Anh ta
muốn nói, “Tôi không yêu,” nhưng anh ta không thể nói điều đó.
Nếu bạn không
muốn nhận tính chất sannyas, chớ nhận nó! Nhưng đừng chơi trò láu cá, đừng tinh
ranh, đừng cố tỏ ra láu cá. Đừng nói, “Đây là bên ngoài và tôi muốn cái gì đó
bên trong.”
Trong sự tồn tại,
cái bên ngoài gặp gỡ cái bên trong, cái bên trong gặp gỡ cái bên ngoài; chúng
là hai cánh của con người. Và không con chim nào có thể bay được chỉ với một
cánh, và không người nào có thể trưởng thành với một cánh - bạn cần cả hai. Thế
giới này cần Thượng đế cũng nhiều như Thượng đế cần thế giới này. Thế giới này
không thể tồn tại mà không có Thượng đế; Thượng đế cũng không thể tồn tại mà
không có thế giới này.
Tôi yêu một
giáo sĩ - tên ông ấy là Baal Shem, nhà huyền môn Do Thái, một trong một vài người
Do Thái đã chứng ngộ. Ông ấy hay nói trong mọi lời cầu nguyện, “Xin nhớ, nhiều
như con cần tới ngài, ngài cũng cần tới con. Không có Baal Shem này thì ngài sẽ
ở đâu?” Ông ấy hay nói với Thượng đế, “Con cần ngài, ngài cũng cần con. Không
có Baal Shem này thì ngài sẽ ở đâu? Ai sẽ cầu nguyện?”
Nhớ điều đó.
Ông ấy biết điều gì đó, ông ấy là phải. Cái bên trong cần tới cái bên ngoài, bởi
vì cái bên ngoài không là gì ngoài cái bên trong được kéo dài ra. Cái bên ngoài
cần cái bên trong, bởi vì cái bên trong không là gì ngoài trung tâm của của ngoại
vi.
Liệu có thể có
trung tâm mà không có ngoại vi không? Liệu có thể có ngoại vi mà không có trung
tâm không? Điều đó là không thể được. Làm sao bạn có trung tâm mà không có chu
vi? Nếu bạn có trung tâm, nếu bạn gọi nó là trung tâm, thì chính khoảnh khắc đó
chu vi tới. Làm sao bạn có thể có chu vi nếu không có trung tâm? Nó có thể vô
hình nhưng nó có đó, nếu không thì chu vi không thể có đó được. Thế thì, nếu bạn
nhìn đúng và sâu sắc, chu vi không là gì ngoài trung tâm được kéo dài, và trung
tâm cũng không là gì ngoài chu vi trong hạt mầm, cô đặc, tập trung, về bản chất.
Sống không dính
líu với sự việc bên ngoài, không dính líu tới cảm giác bên trong về trống rỗng.
Chân thành
không có hoạt động cố gắng trong cái một của mọi sự, và cái nhìn sai lầm sẽ tự
nó biến mất.
Khi ông cố gắng
dừng hoạt động để đạt tới tính thụ động,
chính nỗ lực của
ông làm ông tràn đầy với hoạt động.
Đây là luật hiệu
quả ngược...
Khi ông cố gắng
dừng hoạt động để đạt tới tính thụ động, thì chính nỗ lực của ông làm ông tràn
đầy với hoạt động.
Chừng nào ông
còn ở cực đoan này hay cực đoan khác ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.
Những người
không sống theo Đạo duy nhất thất bại cả trong hoạt động và thụ động, khẳng định
và phủ định.
Đừng cố gắng thụ
động, bởi vì nỗ lực thuộc về hoạt động. Không ai có thể cố thành thụ động được.
Thế thì phải làm gì? Tích cực hoàn toàn, và thế thì thụ động tới. Nó theo sau
như cái bóng, nó phải tới. Suy nghĩ thật hoàn hảo và thế thì vô suy nghĩ tới. Bạn
không thể vứt bỏ suy nghĩ. Không cái gì có thể bị vứt bỏ mà lại không đầy đủ,
chỉ cái hoàn hảo mới có thể bị vứt bỏ. Trong thực tế, cái hoàn hảo vứt bỏ chính
nó một cách tự động.
Tích cực vào -
bản thân việc tích cực tạo ra tình huống mà trong đó thụ động xảy ra. Nếu bạn
đã tích cực cả ngày, tích cực toàn bộ cho bất kì việc gì bạn làm đi... Đào hố
trong vườn hay làm việc trong xưởng máy hay trong cửa hiệu hay dạy học trong
trường, dù bất kì việc gì bạn làm, làm nó một cách toàn bộ, và khi buổi tối tới
và mặt trời lặn, bạn sẽ được sự thụ động choàng xuống. Thụ động đó là đẹp, nó
là đẹp cũng như hoạt động vậy. Không có gì để chọn cả! Cả hai đều đẹp và cả hai
đều cần.
Đừng cố gắng thụ
động. Làm sao bạn có thể cố gắng thụ động được? Bạn có thể ngồi giống như Phật,
nhưng cái thụ động đó sẽ chỉ sâu như lớp da thôi. Sâu bên dưới bạn sẽ trong rối
loạn, bạn sẽ sôi sùng sục, núi lửa - bạn có thể bùng nổ vào bất kì lúc nào. Bạn
có thể bắt buộc thân thể ngồi im lặng - làm sao bạn bắt buộc bản thể mình được?
Bản thể cứ tiếp diễn, tiếp diễn mãi. Đó là lí do tại sao bạn không thể nào dừng
suy nghĩ. Mọi người ngồi trong tư thế ngồi thiền zazen hết năm nọ đến năm kia,
hai mươi năm, hai mươi nhăm năm, ngồi sáu giờ, liên tục chỉ cố gắng để làm cho
tâm trí im lặng, mà nó cứ làm việc hoài, làm việc mãi, làm việc nữa.
Do đó nhấn mạnh
của tôi là vào thiền tích cực. Đó là sự cân bằng. Trước hết tích cực toàn bộ đến
mức cái thụ động theo sau một cách tự động. Khi bạn đã tích cực và toàn bộ năng
lượng đã chuyển hết, bạn sẽ giống như sự nghỉ ngơi. Nếu bạn còn chưa tích cực
làm sao nghỉ ngơi theo sau được?
Logic sẽ nói điều
gì đó hoàn toàn khác. Logic sẽ nói, “Thực hành nghỉ ngơi cả ngày đi, đến đêm bạn
có thể nghỉ tốt.”
Mulla Nasruddin
tới bác sĩ. Ho rũ rượi, anh ta bước vào. Bác sĩ nói, “Vẫn còn ho à? Nhưng dường
như khá hơn đấy.”
Nasruddin nói,
“Nó phải thế, bởi vì cả đêm tôi đã thực hành nó.”
Nếu cả ngày bạn
thực hành nghỉ, đừng trông đợi ngủ nghê gì nữa vào ban đêm. Thực hành nghỉ ngơi
sẽ không đem đến nhiều nghỉ ngơi hơn; thực hành nghỉ ngơi sẽ đem tới hoạt động.
Thế thì nằm trên giường mình bạn sẽ nghĩ, và đi từ mặt này sang mặt khác. Bạn sẽ
thực hiện bài luyện tập cả đêm. Và nếu bạn bắt buộc thân thể mình, thế thì tâm
trí sẽ phải thế vào, thế thì tâm trí sẽ cứ trong ác mộng.
Không, người
trí huệ cân bằng, và người đó biết cuộc sống tự nó cân bằng. Nếu bạn làm việc -
nhưng làm toàn bộ, để không gì còn lại, toàn bộ năng lượng đã tận hưởng hoạt động
- thế thì nghỉ ngơi là tự động, thế thì nghỉ ngơi theo sau. Và khi bạn tận hưởng
nghỉ ngơi thế thì hoạt động theo sau, bởi vì khi bạn nghỉ ngơi bạn thu lại năng
lượng, bạn trở nên được khoẻ lại. Thế thì toàn bộ thân thể được tràn đầy, tràn
ngập với năng lượng. Bây giờ lần nữa bạn phải chia sẻ nó, và trong hoạt động bạn
phải cho nó ra. Lần nữa bạn sẽ lại được tràn đầy.
Cũng giống như
các đám mây: chúng phải mưa xuống, lần nữa chúng sẽ được tràn đầy - đại dương
có đó để làm tràn đầy chúng. Chúng phải mưa xuống, lần nữa chúng sẽ được làm
tràn đầy. Dòng sông phải trút mình vào đại dương, nó sẽ được tràn đầy lần nữa.
Nó càng trút xuống thì nó sẽ càng được tràn đầy.
Tăng Xán nói:
Tích cực toàn bộ, thế thì ông sẽ có khả năng thụ động hoàn toàn. Thế thì cả hai
cực đoan gặp gỡ và cân bằng tinh tế được đạt tới. Cân bằng tinh tế đó là
samyaktva, cân bằng tinh tế đó là thanh bình. Cân bằng tinh tế đó là an bình
cao nhất có thể có, cực đỉnh, thượng đỉnh, tột đỉnh, bởi vì khi hai điều cân bằng
- bên ngoài và bên trong, tích cực và thụ động - bỗng nhiên bạn siêu việt lên
trên cả hai. Khi cả hai chúng cân bằng bạn không còn là cái này, cái kia nữa. Bỗng
nhiên bạn là lực thứ ba - người nhìn, nhân chứng. Nhưng bạn không thể cố gắng
cho nó.
Khi ông cố gắng
dừng hoạt động để đạt tới tính thụ động, thì chính nỗ lực của ông làm ông tràn
đầy với hoạt động.
Chừng nào ông
còn ở cực đoan này hay cực đoan khác ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.
Siêu việt lên
trên các cực đoan đi! Đừng là người trần tục và cũng đừng là cái gọi là người
tâm linh. Đừng là kẻ hữu thần, đừng là kẻ vô thần. Đừng điên khùng vì của cải
bên ngoài và đừng bị ám ảnh với thanh bình bên trong. Cân bằng đi... cân bằng
nên là khẩu hiệu.
Những người
không sống theo Đạo duy nhất thất bại cả trong tích cực và thụ động, khẳng định
và phủ định.
Và đây là kết
quả: những người chọn các cực đoan, họ cả hai đều thất bại, bởi vì nếu bạn cứ
tích cực và tích cực và tích cực mãi, mà không thụ động nào được phép, bạn phục
hồi bản thân mình từ đâu được? Bạn sẽ trở thành cái vỏ trống rỗng, bất lực,
nghèo nàn.
Điều đó đã xảy
ra cho cái gọi là những người thành công trên thế giới này: chính khách, tổng tống,
thủ tướng: vào lúc họ đạt được thì họ đã mất mọi thứ. Họ không còn đó nữa.
Thành công có đó, nhưng trong việc mặc cả họ đã bán bản thân mình, họ không còn
có đó nữa. Và cũng điều ấy đã xảy ra cho những người chọn cái bên trong, người
hướng nội: vào lúc họ đạt tới bên trong, họ thấy chỉ toàn rối loạn khắp xung
quanh.
Nếu bạn chọn cực
đoan, bạn sẽ thất bại trong cả hai đằng. Nếu bạn không chọn lựa, bạn sẽ thành
công trong cả hai đằng. Cân bằng thành công, cực đoan thất bại. Cân bằng này Phật
gọi là trung đạo, majjhim nikaya, theo Khổng Tử, ‘phương tiện vàng’.
Chỉ ở giữa. Đây
là kĩ năng và nghệ thuật lớn nhất, chỉ ở giữa, không chọn lựa, không chuyển
sang trái, không chuyển sang phải. Đừng là cực hữu và cũng đừng là cực tả - chỉ
ở chính giữa.
Nếu bạn ở chính
giữa bạn siêu việt trên thế giới này. Thế thì bạn không còn là đàn ông nữa,
không còn là đàn bà nữa. Đó là điều Jesus nói. Thế thì bạn không còn là người
duy vật, không còn là người duy tâm. Thế thì bạn không sống nữa, bạn không chết
nữa.
Không thế này,
chẳng thế nọ - cây cầu đã được vượt qua. Bạn đã đạt tới mục đích. Và mục đích
không ở đâu đó trong tương lai, nó là ở đây giữa hai cực đoan. Không ghét không
yêu...
Bao giờ nhớ, bất
kì khi nào bạn thấy hai cực đoan, đừng chọn lựa. Chỉ cố gắng tìm ra sự cân bằng
ở giữa. Điều đó sẽ khó khăn lúc đầu, chỉ bởi vì thói quen cũ.
Chuyện đã xảy
ra:
Mulla Nasruddin
bị ốm và anh ta được đưa vào bệnh viện. Chỉ sau vài phút ai đó gõ cửa và một
người đàn bà nhỏ bé nhanh nhẹn bước vào.
Cô ấy nói, “Tôi
là bác sĩ của anh. Cởi quần áo ra, tôi phải kiểm tra anh.”
Mulla hỏi, “Bác
sĩ muốn nói cởi toàn bộ ư?” Bác sĩ nói, “Đúng, đó là điều tôi muốn nói.”
Thế là anh ta cởi
quần áo ra. Người phụ nữ này kiểm tra, khám bệnh cho anh ta. Thế rồi cô ta nói,
“Bây giờ anh có thể vào giường. Anh còn câu hỏi nào nữa không?”
Mulla Nasruddin
nói, “Mỗi một câu thôi: sao bác sĩ lại phải bận tâm gõ cửa?”
Người đàn bà
nói, “Chỉ là thói quen cũ.”
Thậm chí trong
cử chỉ của bạn, thói quen cũ vẫn còn dai dẳng. Thói quen dễ tuân theo bởi vì bạn
không cần nhận biết - chúng cứ theo cách của chúng. Nhận biết là khó, bởi vì nó
chưa bao giờ là thói quen cho bạn.
Bạn chọn lựa dễ
dàng, bạn lên án, ca ngợi dễ dàng, bạn bác bỏ, chấp nhận dễ dàng. Bạn nói, “Cái
này phải, cái kia trái,” thật dễ dàng, bởi vì điều này đã trở thành thói quen:
trong hàng triệu kiếp, bạn bao giờ cũng chọn lựa. Đây chỉ là hiện tượng tựa người
máy.
Không nhận biết,
khoảnh khắc bạn thấy cái gì đó, bạn đã quyết định và đánh giá. Hoa có đó: bạn
nhìn và bạn nói, “Đẹp,” hay “Không đẹp.” Lập tức phán xét tới; với cảm nhận,
phán xét tới. Thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ có thể vẫn còn ở giữa được.
Ai đó tới gặp
Trang Tử và ông ta nói về một người trong thành và nói, “Nó là tội nhân, người
rất xấu, kẻ cắp,” và lên án người này theo nhiều, nhiều cách.
Trang Tử lắng
nghe và nói, “Nhưng anh ta thổi sáo tuyệt vời.”
Thế rồi người
khác tới, và người thứ nhất vẫn còn ngồi đó, và người kia nói, “Người này trong
thành phố thực sự là người thổi sáo cừ.”
Trang Tử nói, “Nhưng
anh ta là kẻ cắp.”
Cả hai người đều
có mặt, cho nên họ nói, “Ông ngụ ý gì?”
Trang Tử nói,
“Chỉ là việc cân bằng. Và ta là ai mà phán xử? - anh ta là kẻ cắp, anh ta là
người thổi sáo hay. Với ta không có bác bỏ, không có chấp nhận. Với ta không có
chọn lựa. Anh ta là bất kì cái gì anh ta là. Ta là ai mà phán xử hay chọn cực
đoan này hay cực đoan kia? Với ta, anh ta không tốt cũng chẳng xấu. Anh ta là bản
thân anh ta và đó là việc của anh ta. Ta là ai ở đây để nói điều gì? Ta phải
nói điều gì đó chỉ để làm cân bằng cho cả hai ông thôi.”
Khó mà không chọn
lựa, nhưng cố lên. Và trong mọi thứ... Khi bạn cảm thấy ghét, cố chuyển vào giữa.
Khi bạn cảm thấy yêu, cố chuyển vào giữa. Dù bạn cảm thấy bất kì cái gì, cố
chuyển vào giữa. Và bạn sẽ ngạc nhiên là có một điểm ở giữa bất kì hai cực đoan
nào, nơi cả hai đều dừng tồn tại - khi bạn không cảm thấy ghét mà cũng không cảm
thấy yêu. Đây là điều Phật gọi là upeksha, dửng dưng. Dửng dưng không phải là từ
đúng.
Upeksha có
nghĩa là điểm giữa, như vậy từ đó bạn không thế này cũng chẳng thế nọ. Bạn
không thể nói, “tôi yêu,” bạn không thể nói, “tôi ghét.” Bạn đơn giản không thể
nói điều gì, bạn đơn giản ở giữa. Bạn không bị đồng nhất. Siêu việt xảy ra, và
siêu việt là việc nở hoa. Đó là chín chắn cần được đạt tới, đó là mục đích.
Xem tiếp Chương 3 – Quay về Mục lục