Osho
– Đại Thủ Ấn
Chương
6: Giáo pháp rộng lớn
“Nếu con thoát khỏi mọi tham đắm
Hoặc không còn bám víu vào giả tưởng.
Con sẽ thấu rõ được chân nghĩa của
Kinh tạng.
Khi con miên mật trong Đại Thủ Ấn,
mọi tội lỗi đều bị đốt sạch
Từ trong Đại Thủ Ấn, con thoát ra khỏi
mọi ngục
tù giam giữ của vọng tưởng.
Đó là ngọn Pháp Đăng tối thượng
Những kẻ nào thiếu lòng tin vào Đại
Thủ Ấn
Chính là người vô minh,
luôn bị dằn vặt trong khổ đau và phiền
não
Để đạt được sự Giải Thoát
Con vẫn phải nương theo một vị Du già
Khi tâm con nhận được sự gia trì của
ngài
Thì con đường Giác Ngộ ở trong tầm
tay…
Thực vậy, mọi pháp trong thế gian đều
vô nghĩa
Chúng đều mang hạt giống phiền não
Những lời giảng dạy thiển cận thường
đưa đến
những hành động sai lầm
Hãy nương theo những giáo pháp rộng lớn
hơn…”
Mật Tông không
tin ở tiến trình tu hành của Tiệm Ngộ, nhưng Mật Tông lại có niềm tin ở quá trình
giác ngộ đột ngột của Đốn ngộ. Du Già thì đặt trọng tâm nơi sự giải thoát từng
bước một, từng bước một dần dần, và từ đó, hành giả có thể đạt đến quá trình chứng
ngộ tối hậu nhất. Thuyết Du Già thường tính toán nhân quả theo cấp số cộng: Mỗi
tội lỗi mà bạn quy phạm, bạn phải bình quân lại bằng mỗi việc thiện. Sổ sách
nhân quả của bạn phải được thanh toán cho đầy đủ và hoàn toàn trước khi bạn đắc
ngộ. Nếu bạn không thanh toán được số nợ nhân quả với thế gian này, bạn không
thể nào có thể giải thoát được. Đây là một khái niệm nhân quả của hệ toán học,
và khoa học. Tâm trí thế gian thường cho rằng “Phải như vậy mới được. Nếu một
chúng sinh phạm tội, ai sẽ phải gánh chịu nhân quả giùm cho họ đây? Nếu bạn phạm
tội, bạn phải gánh lấy hậu qủa tội lỗi do hành vi bất thiện của bạn gây ra.
Ai phải gánh lấy
món nợ nhân quả này ngoài bạn? Chỉ qua sự vay trả trả vay sòng phẳng, bạn mới
có thể thoát ly thế gian này được. Tội lỗi là do những hành vi xấu của bạn gây
nên. Khi bạn đã tính hết sổ sách nhân quả với thế gian rồi, thì bạn mới có thể giải
thoát được cõi luân hồi này. Nếu không, bạn sẽ bị ném vào trái đất này nhiều lần,
để bạn có thể tái sinh, để bạn học hỏi, tăng trưởng, và đồng thời, bạn cũng giải
quyết luôn món nợ nhân quả này. Đây là căn nguyên triết lý của Luân hồi.
Quan điểm của Mật
Tông lại hoàn toàn đối nghịch. Mật Tông là nguồn thơ chan chứa dòng chảy của diệu
pháp và không tính toán. Tín ngưỡng của Mật Tông dựa trên lòng từ bi mà không dựa
trên sự tính toán. Mật Tông tin ở sự Đốn ngộ. Họ cho rằng, những pháp tu nhỏ, sẽ
dạy cho bạn mọi phép hành xử để bạn ngăn ngừa tội lỗi. Diệu pháp tối thượng của
Mật Tông, không chỉ dạy bạn các phép hành xử như thế nào, họ dạy bạn cách sống.
Sống là gì?
Hàng muôn triệu tác ý41 của bạn đã tồn kho hằng vô lượng kiếp rồi. Nếu bạn phải
trả hết tất cả cái nhân đó, gần như không thể nào bạn có thể giác ngộ. Hằng vô
lượng kiếp, bạn đã sống, trong mỗi kiếp, hàng triệu tác ý góp nhặt. Nếu bạn phải
trả hết phần đó quả cho mỗi cái nhân đó bằng mỗi một việc thiện, bạn phải cần hằng
vô lượng kiếp mới trả hết số nợ nghiệp này. Trong khoảng thời gian dài vô hạn
đó, và qua những mối quan hệ phức tạp của mỗi kiếp, bạn lại mắc phải tội nhiều tội
lỗi hơn nữa. Vậy, sợi dây xiềng xích này sẽ chấm dứt tại đâu? Có vẻ không thể
nào. Nó không thể xảy ra. Giải thoát gần như không thể được. Nếu đó là luật
nhân quả, mỗi bước và mỗi bước, hành giả phải gắng tu tập để rửa nghiệp chướng
tội lỗi. Sự rửa nghiệp này có vẻ như là một giấc mơ không thể thành tựu.
Nếu bạn thấu
triệt thái độ của Du Già, bạn sẽ cực kỳ tuyệt vọng. Mật Tông mang lại hy vọng lớn
lao. Mật Tông như ốc đảo trong thế giới của sa mạc. Mật Tông dạy rằng đó không
phải là điểm chính. Tác ý không là vấn đề. Tâm hành bởi vô minh. Chúng phát xuất
qua vô minh. Sự thật, Mật Tông bảo rằng bạn không gánh trách nhiệm. Nếu có ai
phải gánh lấy trách nhiệm, đó chính là toàn thể, Thượng Đế nếu bạn muốn cho là
như vậy… Có lẽ Thượng Đế phải gánh lấy trách nhiệm này. Bạn không thể nhận lãnh
trách nhiệm. Mật Tông bảo rằng, thậm chí nhận lãnh trách nhiệm này là cực kỳ tự
kỷ. Bảo rằng, “Tôi phải tính sổ sách. Tôi phải hành nhiều việc thiện. Tôi phải
giải thoát từng bước từng bước một.” Quá tự kỷ, thái độ ích kỷ. Tại sao bạn cho
rằng bạn nhận lãnh trách nhiệm? Thậm chí nếu trách nhiệm phải nhận lãnh nơi chốn
nào đó, như vậy, phải với chính Đấng Thiêng liêng này, với Toàn thể. Bạn không
tự tạo ra bạn. Bạn không tự sinh ra bạn. Bạn đã được sinh ra. Vì vậy, Tạo hóa phải
nhận lãnh trách nhiệm, không phải bạn.
Nếu tâm hành
qua vô minh, bạn không nhận biết bạn đã làm gì. Bạn hoàn toàn bị say sưa trong vô
minh. Trong bóng tối, bạn dò dẫm. Trong bóng tối, bạn xung đột với kẻ khác.
Trong bóng tối, bạn vấp phải một cái gì đó và có gì đó xảy ra. Mật Tông dạy rằng,
chỉ có một điều nên cần, đó là ánh sáng, tỉnh thức, chấm dứt vô minh. Không phải
là hàng triệu tội lỗi phải được tính toán. Chỉ có một điều duy nhất cần phải
thành tựu. Đó là, đừng vô minh, hãy tỉnh thức….
Khi bạn tỉnh thức
rồi, tất cả những gì thuộc về bóng tối của thế gian biến mất. Nó như là một giấc
mơ, một cơn huyễn mộng. Nó không giống thực tại. Nó chưa hề là thực tại. Khi bạn
vô ý thức, chỉ có huyễn mộng hiện diện, không là thực tại. Bạn phải mộng bạn được
yêu thương. Bạn không sống để yêu thương. Bạn không hiện hữu. Bạn thiếu vắng
trung tâm. Làm sao bạn có thể yêu thương? Bạn chỉ tin bạn ở sự yêu thương. Vì vậy,
sự sống trong tình yêu và những tác ý quẩn quanh.
Nó thành huyễn
mộng. Khi bạn thức dậy từ cơn mộng, bạn sẽ nói rằng “Làm sao tôi có thể yêu thương?
Không thể nào! Tôi chưa hề hiện hữu. Tôi là bất hiện sinh!” Thiếu vắng sự tỉnh
thức, ý nghĩa nó là gì, khi bảo “Ta là…?” Nó vô ý nghĩa.
Bạn ngủ say.
Say đến nỗi như bạn không hiện hữu. Một con người say ngủ, cơn hôn mê trong nhà…
Thật sự ông có mặt hay không? Không có sự khác biệt nào đáng chú ý cả. Dù ông
có hiện diện hay khiếm diện, không tạo nên sự khác biệt nào. Ông đang trong cơn
hôn mê. Nếu trộm cướp đến, cướp của hết của cải trong nhà, bạn có cho là người đang
trong cơn hôn mê, vô thức phải nhận lãnh trách nhiệm? Ông có bị kết án và phê
phán, “Trộm cướp đến, ông làm gì ở đó?” Làm sao bạn có thể bắt ông nhận lãnh
trách nhiệm khi ông đang trong cơn hôn mê?
Mật Tông cho nhận
lãnh trách nhiệm. Đây là giải thoát tiên quyết nhất mà Mật Tông cho bạn. Trên nền
tảng trách nhiệm, lập tức mọi sự đều có thể. Bạn không cần phải đợi chờ hằng vô
lượng kiếp… ngay giây phút này, cánh cửa đã mở. Nó không là quá trình tiệm ngộ.
Nó là quá trình đốn ngộ. Nó phải như vậy. Nếu bạn đang yên giấc, có người đánh
thức bạn dậy, nó là quá trình tiệm ngộ hay đốn ngộ? Thậm chí trong giấc ngủ
bình thường, nó là quá trình tiệm ngộ? Nó như thế này, bạn tỉnh ngủ một chút,
sau đó, một chút nữa, mười phần trăm, hai mươi phần trăm, ba mươi phần trăm,
năm mươi phần trăm, với cách đó, nó có xảy ra không?
Không, một là bạn
ngủ, hai là bạn thức, không có từng bước một từ từ. Nếu bạn nghe có người gọi tên
bạn, bạn tỉnh dậy. Không phải mười phần trăm tỉnh. Đôi mắt có thể khép kín,
nhưng nếu bạn nhận biết có người nào đang gọi bạn, bạn đã tỉnh dậy rồi. Nó
không phải là quá trình tiệm ngộ. Nó là sự lao mình đột ngột. Một trăm độ, nước
bốc hơi.
Có sự hoán đổi
từ từ không? Có phải nước mười độ, hai mươi độ, ba mươi độ? Không, một là nước,
hai là hơi nước. Không có sự phân chia ở giữa. Khi một người kề cận với tử thần,
ông có chết dần chết mòn hay không, trong quá trình từ từ? Bạn có thể nói là
ông nửa sống nửa chết? Làm sao một con người nửa sống nửa chết? Một là ông chết,
hai là không chết. Nửa sống có nghĩa là ông chưa chết.
Không có chuyện
như vậy.
Tình thương, sự
sống, tử thần, chúng đều xảy ra đột ngột. Khi một ấu nhi sinh ra, một là được sinh
ra, hai là không được sinh. Trường hợp về giác ngộ là như vậy. Giác ngộ là sự
sinh tối hậu, sự chết tối hậu, sự sống tối hậu, sự từ bi tối hậu… Mọi sự đến tột
đỉnh tối hậu trong giác ngộ. Nó là sự đột ngột. Mật Tông nói “Đừng đặt sự chú ý
trên tác ý. Đặt chú ý trên tác nhân.” Du già chú tâm đến tác ý. Mật Tông chú
tâm trên tác nhân, trên tâm thức, trên bạn.
Nếu bạn vô
minh, Mật Tông bảo bạn nhất định phạm tội. Thậm chí nếu bạn nỗ lực đạo hạnh, đạo
hạnh của bạn sẽ là một loại tội lỗi. Làm thế nào một con người vô minh, say ngủ,
lại đạo hạnh? Làm sao đạo hạnh phát xuất từ sự vô minh, vô thức? Không thể nào!
Đạo hạnh của bạn chỉ là mặt nạ. Bên dưới là khuôn mặt thật đầy tội lỗi. Bạn nói
về từ bi, nhưng bạn không từ bi, bạn sân hận. Bạn có thể nói về lòng nhân ái,
nhưng sự nhân ái nhất định che giấu cơn giận, tham cầu, ganh tỵ. Tình thương của
bạn nhiễm độc. Tận đáy từ bi là con sâu sân hận, ăn dần mòn nó. Tình thương của
bạn là vết thương, đau đớn. Nó không giống nụ hoa. Những người mong đợi tình
thương của bạn là những con người ngu si. Họ yêu cầu điều không thể. Những người
đòi hỏi đạo đức là vô minh, họ đòi hỏi điều không thể. Đạo đức của bạn nhất định
là một loại phi đạo đức.
Hãy quan sát những
con người đạo đức, những bậc được xưng tụng là thánh nhân của bạn. Quan sát họ,
bạn sẽ tìm thấy khuôn mặt của họ là những khuôn mặt đạo đức giả, gian dối. Họ
nói một điều, họ làm một nẻo. Họ làm việc gì, họ không những che giấu bạn, họ
còn khôn khéo trong sự che giấu. Họ che giấu chính họ. Trong vô minh, tội lỗi là
tự nhiên. Trong giác ngộ, đạo hạnh là tự nhiên.
Một vị Phật
không tội lỗi42. Bạn không thể làm khác. Bạn chỉ có thể tội lỗi. Đạo hạnh và tội
lỗi không do bạn quyết định. Chúng không là tác ý của bạn. Chúng là các chiếc
bóng bản thể. Nếu bạn tỉnh thức, chiếc bóng rực chiếu hào quang. Chiếc bóng không
tổn hại một ai. Nó có hương vị của sự bất khả tri, của bất diệt. Nó chỉ rơi
tuôn rơi trên bạn như sự gia trì. Nếu không, thì không thể. Thậm chí, nếu một vị
Phật giận bạn, nó là sự từ bi. Cơn giận của Đức Phật không là thật. Tội lỗi của
bạn, chiếc bóng tự nhiên của bạn, bất cứ những gì bạn hành động, bạn tô điểm
lên nó. Bạn xây một đền thờ trên nó. Bạn che giấu nó. Bạn làm cho nó nổi bật
lên, nhưng điều đó không giúp được gì. Tận đáy tâm, bạn sẽ tìm thấy nó. Không
phải là vấn đề của tác ý, mà là vấn đề bạn là ai.
Để ý sự nhấn mạnh
này. Nếu bạn thấu hiểu sự thay đổi ở nhấn mạnh, sự thay đổi ở sự nhấn mạnh là một
điểm trọng đại, chỉ như vậy, bạn mới thấu hiểu Mật Tông. Mật Tông là diệu pháp.
Nó không dạy về hành. Nó dạy về tự tánh. Bạn là ai ở điểm này… say ngủ hay tỉnh
thức? Bạn là ai, cảnh giác, ý thức, hay vận hành trong hôn mê? Bạn là kẻ mộng
du hay người tỉnh thức? Cảnh giác trong mọi hành động? Bạn hành trong tự niệm?
Nó xảy ra, bạn không biết tại sao. Nó từ đâu đến, từ bộ phận nào của tâm vô thức
thôi thúc và chiếm hữu bạn, và bạn phải hành động?
Tâm hành này, bất
cứ là gì mà xã hội nói về nó… đạo đức hay phi đạo đức, tội lỗi hay trong sạch,
Mật Tông không chú tâm. Mật Tông nhìn bạn, ở chính trung tâm căn tánh của bạn từ
nơi nó phát xuất. Từ độc tố của vô minh, sự sống không đến được, chỉ có cái chết.
Từ bóng tối, chỉ có bóng tối sinh ra. Tuyệt đối tự nhiên. Vậy phải làm gì?
Chúng ta thay đổi
tâm hành? Chúng ta nỗ lực đạo đức, trong sạch, đáng kính hơn, hay chúng ta nỗ lực
thay đổi bản thể? Tánh có thể thay đổi. Không cần phải chờ đợi qua hằng vô lượng
kiếp. Nếu có cườngđộ của sự khả tri, nếu bạn mang toàn bộ nỗ lực, năng lượng, bản
thể, để thấu triệt nó. Trong cường độ đó, ánh sáng đột nhiên rực lửa trong bạn.
Ngọn lửa rực cháy từ tự tánh như sấm sét. Toàn bộ quá khứ và toàn bộ tương lai
đột nhiên trong viễn cảnh của bạn. Bạn tri kiến chuyện gì xảy đến. Đột ngột, mọi
sự trở nên rõ ràng, như màn đêm, có người mang vào ánh sáng. Đột ngột, mọi sự
sáng tỏ.
Mật Tông tin ở
sự đốt ngọn lửa nội tại. Mật Tông nó là với ánh sáng đó, quá khứ không còn quan
hệ. Nó không bao giờ thuộc về bạn. Dĩ nhiên, nó xảy đến, nhưng nó xảy đến như một
giấc mộng, khi bạn đang say ngủ. Nó xảy đến, bạn tạo tác nhiều thứ, tốt và xấu,
nhưng chúng đều xảy ra trong vô thức. Bạn không nhận lãnh trách nhiệm. Đột nhiên,
mọi quá khứ đều bị đốt sạch, một bản thể thanh tịnh nổi lên. Đây là sự Đốn ngộ.
Du già hấp dẫn
mọi người bởi nó giống một cuộc giao dịch. Bạn có thể thấu hiểu Patanjali rất dễ
dàng bởi nó thích hợp với tâm, cái tâm luận lý, sự suy nghĩ đầy tính toán.
Tilopa khó hiểu hơn, nhưng Tilopa hiếm có hơn. Trí tuệ của Patanjali thông dụng.
Vì lý do đó, tại sao có sự ảnh hưởng lớn lao của Patanjali thông qua lịch sử.
Người như Tilopa đơn thuần biến mất, không để lại dấu vết nào trong tâm thức
nhân loại. Họ không thể đồng cảm với bạn. Patanjali có lẽ rất là siêu việt, có
lẽ là một nhà tư tưởng lớn, nhưng bạn cùng chung một bình diện.
Nếu bạn nỗ lực
một chút, bạn có thể hiểu Patanjali. Nếu bạn nỗ lực một chút, bạn có thể tu tập
Patanjali. Chỉ cố gắng một chút. Nhưng để thấu hiểu Tilopa, bạn phải hội nhập
vào một bình diện hoàn toàn bất khả tri. Để thấu hiểu Tilopa, bạn phải vận hành
xuyên qua hỗn loạn. Ngài sẽ đoạn tận hết tất cả mọi khái niệm, mọi tính toán, mọi
lý giải, mọi triết lý. Ngài sẽ đoạn tận bạn hoàn toàn. Ngài sẽ không hài lòng
ngoại trừ bạn hoàn toàn bị đoạn tận. Ngài sẽ không mãn nguyện ngoại trừ bạn
hoàn toàn bị đoạn tận, và một bản thể mới mẻ nẩy sinh.
Với Patanjali,
bạn sẽ hoán đổi, bạn sẽ tốt đẹp hơn. Quá trình là vô hạn. Bạn có thể tu tập hằng
vô lượng kiếp, và thánh thiện hơn. Với Tilopa, trong một giây, bạn chứng được tối
thượng; “thánh thiện” hơn không còn là vấn đề bởi ngài không tin ở mức độ. Như
lúc bạn đứng trên ngọn đồi cao, bạn có thể bước từng bước xuống, mỗi bước bạn
đi xuống thung lũng, hay mỗi bước bạn leo lên đỉnh đồi, từng bậc. Với Tilopa, bạn
lao mình vào vực thẳm, không đi qua từng bậc, hay bạn giang đôi cánh rộng, và bay
cao. Với Patanjali, bạn di động bằng xe ngựa, vô cùng chậm chạp, an toàn, không
sợ tai nạn.
Chiếc xe ngựa
luôn đầy sự tự chủ. Bạn bước xuống qua mỗi giây phút. Bạn có thể ngừng lại.
Không gì vượt trên bạn. Bạn là chủ nhân. Bình diện thuộc chiều ngang. Chiếc xe
ngựa di chuyễn từ A đến B, từ B đến C, từ C đến D, nhưng bình diện vẫn như cũ,
vẫn trên cảnh giới đó. Với Tilopa, bình diện thay đổi. Nó biến thành chiều dọc.
Nó không từ A đến B, không từ B đến C, không từ C đến D, như khí cầu, không giống
chiếc xe ngựa, không đi tới, nhưng đi lên. Với Tilopa, bạn hoán đổi thời gian.
Với Patanjali,
bạn vận hành với thời gian. Với Tilopa, sự vô hạn là bình diện. Có lẽ bạn không
trực nhận , nhưng trong vòng một vài năm, hai mươi năm, sự nhiệm mầu xảy ra, những
phi thuyền mới tiêu trừ khái niệm thời gian hoàn toàn, bởi phi thuyền không
gian có thể bay chung quanh địa cầu.
Trong vòng một
hai phút, nó có thể quay xong một vòng. Có lẽ bạn không nhận biết vấn đề lý
thuyết. Một phi thuyền không gian, bay từ Poona, vào ngày Chủ nhật, bay một
vòng xung quanh trái đất… ở nơi nào đó vào ngày thứ Hai. Có lẽ vẫn là thứ Bẩy. Vì
vậy, phi thuyền không gian, bay vào ngày Chủ nhật, trở về vào ngày thứ Bẩy, bay
tiếp vào thứ Hai, trở về Poona vào Chủ nhật vào ngày Chủ nhật. Khái niệm thời
gian không còn nữa. Có vẻ quá phi lý! Bạn khởi sự vào ngày mười sáu, và di động
vào ngày mười bảy, và bạn trở về vào ngày mười sáu. Điều này có thể thực hiện
trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ý là gì? Nó có ý nghĩa là bạn có thể đi
ngược thời gian, từ Chủ nhật đến thứ Bẩy, vào ngày thứ Hai, và trở về vẫn ngày
đó.
Với tốc độ và một
bình diện khác, chiều dọc, thời gian trở nên không liên hệ. Thời gian quan hệ với
chiếc xe ngựa. Đây là thế giới của xe ngựa. Tilopa có tâm của chiều dọc, một
tâm thức chiều dọc. Mật Tông là chiều dọc. Du Già cần hằng vô lượng kiếp để chứng.
Mật Tông khai ngộ: trong một giây. Mật Tông cho là thời gian vốn không liên quan.
Bạn không bận tâm với thời gian. Mật Tông có phương tiện, một thiện xảo phương
tiện, pháp mà Mật Tông bảo là vô pháp, vô thiện xảo phương tiện, xuyên qua đó,
bạn có thể đột ngột quy phục tất cả, và lao mình vào vực thẳm. Du già là nỗ lực.
Mật Tông là vô nỗ lực. Với nỗ lực, với năng lực yếu kém của bạn, với tự ngã nhỏ
bé của bạn, bạn thách đố toàn thể. Nó sẽ cần hằng vô lượng kiếp. Nếu như vậy,
thật là không thể nào bạn có thể chứng ngộ.
Tranh đấu với vạn
hữu là vô minh. Bạn chỉ là một phân tử. Như ngọn sóng trong đời sống với đại dương,
chiếc lá vật lộn với thân cây, hay đôi tay bạn vật lộn với thân bạn. Bạn đang
tranh đấu với ai đây?
Du già là nỗ lực,
cường độ nỗ lực. Du già là phương tiện chống chọi với dòng chảy, vận hành chống
chọi với dòng chảy. Bất cứ gì là sự tự nhiên, du già phải buông bỏ hết. Bất cứ
gì là không tự nhiên, du già phải phấn đấu với nó. Du già là con đường không tự
nhiên. Vật lộn với dòng sông và bơi ngược dòng! Dĩ nhiên, có thử thách, và sự
thử thách này có thể tận hưởng. Nhưng ai là người tận hưởng sự thử thách? Tự
ngã của bạn.
Thật khó mà tìm
thấy một du già nào mà không ích kỷ. Thật là khó lắm, rất hiếm hoi. Bạn có thể
tìm thấy một du già không là một con người vị kỷ, nhưng đó là một phép mầu. Khó
khăn bởi vì toàn bộ nỗ lực tạo nên ngã tính, sự chống đối này. Có lẽ bạn sẽ tìm
thấy một du già khiêm tốn, nhưngnếu bạn tìm hiểu sâu hơn, trong đặc tính khiêm
tốn của họ, bạn sẽ thấy được một tự ngã cực kỳ vi tế ẩn tàng, tự ngã siêu vi tế.
Họ sẽ nói “Chúng tôi là bụi trên đất.” Nhưng nhìn vào đôi mắt họ, họ đang khoe khoang
sự khiêm tốn của họ. Ý tự ngã là vậy. Họ sẽ nói “Không một ai khiêm tốn hơn
chúng tôi. Chúng tôi là những con người khiêm tốn nhất.” Nếu bạn vận hành ngược
với tự nhiên, tự ngã sẽ được hỗ trợ.
Đó là thử
thách. Vì vậy, mọi người đều thích thử thách. Sự sống không có những thử thách
trở nên tối tăm, bởi ngã tính đói khát. Tự ngã cần thực phẩm. Thử thách mang đến
nguồn dinh dưỡng. Vì vậy, mọi người tìm kiếm thử thách. Nếu không có những thử
thách, họ tạo ra. Họ tạo ra chướng vật để họ có thể tranh đấu với chướng vật.
Mật Tông là con
đường tự nhiên. Buông thả và tự nhiên là mục đích. Bạn không cần thách đố với
dòng tuôn chảy. Đơn thuần tan chảy với nó. Sông lớn tuôn ra biển rộng, tại sao
phải chống chọi? Chuyển động với dòng sông. Trở thành một với dòng sông, hoàn
toàn quy phục. “Quy phục” là ý chính của Mật Tông. “Ý chí” là ý chính của du già.
Du già là con đường ý chí. Mật Tông là con đường quy phục. Vì vậy, Mật Tông là
con đường từ bi. Từ bi là quy phục. Điều đầu tiên cần nên thông suốt. Từ đó, lời
dạy của Tilopa trở nên cực kỳ trong suốt và rõ ràng. Một bình diện nữa của Mật
Tông cần nên thấu suốt… bình diện dọc, bình diện quy phục, không chống đối,
buông xả và tự nhiên, vắng bặt… điều mà Trang Tử bảo: “Thuận theo ‘Tánh tự-nhiên’
của mình”43 Với Du Già, khổ hạnh tiệm ngộ là đúng. Với Mật Tông, buông xả quy
phục trở về “tự tánh” chính mình. “Buông xả và tự nhiên”, không cần vội vã. Chính
vạn pháp sẽ hướng dẫn bạn đến sự hài hoà của bạn. Bạn không cần nỗ lực cá nhân.
Bạn không cần yêu cầu phải nội chứng trước thời điểm của bạn. Bạn tự chứng khi
thời điểm chín mùi. Bạn đơn thuần chờ đợi…Vạn pháp đang vận hành, tại sao bạn
phải gấp rút? Tại sao bạn lại muốn đến trước người khác? Có một giai thoại rất
hay về Đức Phật.
Ngài đến trước
cổng Thiên Cung. Dĩ nhiên, ngài quay lưng lại, nhìn xuống thế giới luân hồi (Samsara).
Hàng triệu linh hồn đang cùng trên con đường tầm đạo, thống khổ, đau đớn, vật lộn,
nỗ lực để tìm đến cánh cửa của Cực lạc quốc. Thần giữ cửa bảo, “Con xin mời Đức
Phật vào! Mọi chư Phật đang chờ đợi!” Đức Phật đáp, “Làm sao ta có thể bước vào
khi tất cả mọi chúng sinh vẫn chưa đến được? Hình như vẫn chưa đúng thời điểm.
Làm sao ta có thể bước vào khi tất cả mọi chúng sinh vẫn chưa khả thể? Ta phải
chờ đợi họ. Như đôi tay của ta đến, nhưng đôi chân vẫn bên ngoài cửa. Ta phải chờ
đợi. Chỉ đôi tay thôi không đủ.”
Đây là một
trong những trí huệ sâu thẳm nhất của Mật Tông. Mật Tông cho rằng không ai chứng
ngộ, thực tế, một mình. Chúng ta đều đồng thể. Chúng ta là thành viên của mỗi
cá nhân. Chúng ta là vạn pháp. Một cá nhân có thể trở thành sóng lớn, ở đỉnh
cao tối thượng, nhưng vẫn bao bọc chung quanh với những đợt sóng nhỏ. Nó không
đơn độc.
Nó vẫn tồn tại
với đại dương và những ngọn sóng. Làm sao một ngọn sóng đơn độc chứng ngộ? Nghe
kể rằng, trong giai thoại tuyệt diệu này, Đức Phật vẫn đang chờ đợi. Ngài phải
chờ đợi. Không một ai là hải đảo đơn độc. Chúng ta đồng là lục địa. Chúng ta đều
đồng thể. Có lẽ tôi sẽ bước một bước xa hơn bạn, nhưng tôi không hề chia cách bạn.
Hiện tại, tôi nhận biết sâu sắc rằng, không là giai thoại của tôi. Tôi đang chờ
đợi bạn. Không còn là một giai thoại. Tôi nhận biết không có cá nhân chứng ngộ.
Một cá nhân có thể bước xa hơn một bước. Chỉ có vậy, nhưng họ vẫn tồn tại với vạn
hữu. Nếu một con người giác ngộ, không nhận biết ông là đồng thể với mọi người,
là một với mọi chúng sinh, vậy ai sẽ nhận thức điều này? Chúng ta vận hành như
một thể. Mật Tông dạy, "Đừng vội vã. Đừng nỗ lực. Đừng vượt qua người
khác. Đừng thúc đẩy họ. Đừng là người đầu tiên trước hàng. Hãy buông xả và tự
nhiên. Vạn pháp đều hướng về giải thoát. Nó sẽ xảy ra. Đừng thống khổ vì nó."
Nếu bạn thấu hiểu
điều này, bạn đã gần với nó rồi. Hành giả nên buông xả. Nếu không, con người
tín ngưỡng sẽ trở nên căng thẳng. Thậm chí con người ở cõi bên kia cũng căng thẳng
với mục tiêu của họ. Dĩ nhiên rồi. Căng thẳng nhưng không quá độ như con người
tầm đạo bởi họ căng thẳng để đến bến bờ bên kia. Cảnh giới của họ xa thẳm, vô
hình, và họ luôn trong sự nghi ngờ là nó có hiện hữu không. Sau đó, thống khổ mới
sẽ nẩy sinh. Tinh thần bị quấy nhiễu. Đừng trở thành loại người tín ngưỡng này.
Đối với tôi,
người tầm đạo là người buông xả và tự nhiên. Ông không lo lắng về thế gian này hoặc
cảnh giới kia. Ông hoàn toàn không bận tâm về nó. Ông đơn thuần sống và tận hưởng,
giây phút qua từng giây phút. Giây phút tới tự nó lo lắng cho nó. Khi giây phút
đến, ông sẽ đón nhận nó trong niềm cực lạc và đầy tự tại. Đạo nhân không mục tiêu.
Có mục tiêu là trần tục. Mục tiêu của bạn có lẽ là Thượng Đế, không tạo nên
khác biệt gì.
Mật Tông thật sự
tuyệt mỹ. Mật Tông là sự hiểu biết tối thắng, và là pháp vi diệu nhất. Nếu bạn không
hiểu Mật Tông, như vậy, du già sẽ dành cho bạn. Nếu bạn có thể hiểu Mật Tông, đừng
quan tâm đến những phương tiện nhỏ khác. Khi chuyến tàu vĩ đại nơi này, tại sao
lại bận tâm đến những chiếc phà nhỏ? Trong Phật Giáo, có hai bộ phái. Danh tự của
hai bộ phái này cực kỳ trọng đại. Một được biết đến là Hinayana, Tiểu thừa. Đây
là con đường du già, chiếc phà nhỏ. Bạn có thể ngồi một mình trong nó. Bạn không
thể chuyên chở một ai. Nó quá nhỏ bé. Bậc Du già chuyển động trong đơn độc.
Hinayana (Tiểu Thừa) có nghĩa là chiếc đò nhỏ. Còn một bộ phái nữa được gọi là
Mahayana (Đại Thừa), chiếc đò lớn, hàng triệu chúng sinh đồng có thể ngồi trong
nó. Toàn bộ thế gian có thể hấp thụ trong nó.
Mahayana. là
con đường của Mật Tông, và Hinayana là con đường của du già. Tilopa là Bổn sư của
Đại thừa, người tin ở chiếc đò lớn, Đại bảo ấn. Những chiếc đò nhỏ dành cho những
cá nhân vị kỷ, không thể chịu đựng có chúng sinh khác trên chiếc đò này. Cá
nhân đơn độc, những con người thích phê phán, luôn kết tội kẻ khác. “Ông muốn
được chứng? Nỗ lực để đến đó? Ông không thể nào chứng. Rất là hiếm có kẻ chứng.”
Họ sẽ không cho phép bạn ngồi trong chiếc đò nhỏ đó. Mahayana có lòng từ bi đối
với tất cả. Mọi người cùng lên. Thật sự, vô điều kiện. Mọi người tìm đến tôi hỏi,
“Ngài cho mọi người, và bất cứ người nào cũng thành hành giả hết hả?” Hành giả
chưa bao giờ được như vậy. Lần đầu tiên, trong lịch sử loài người, tôi nhận tất
cả làm hành giả mà không đòi hỏi một điều kiện nào.
Các hành giả
luôn là những con người ích kỷ. Con người của cảnh giới bên kia. Con người phê
phán, con người đầu độc, họ cho rằng mọi thứ ở thế giới này đều sai lầm. Toàn bộ
cuộc đời là tội lỗi. Lúc nào cũng có cái nhìn trong đôi mắt là họ thánh thiện
hơn bạn. Địa ngục là dành cho bạn. Họ là những hành giả vĩ đại. Bạn từ bỏ thế
gian, thế gian tội lỗi, bụi bậm và đầy sự ô nhiễm, và bạn vẫn còn đắm chìm
trong đó. Những kẻ vị kỷ nhất là các hành giả đó. Lần đầu tiên, tôi mở cửa cho
tất cả.
Tôi cho phép tất
cả. Thật sự, tôi đã ném cánh cửa mất rồi. Nó không thể đóng lại nữa. Mọi người,
mọi chúng sinh đều được chào mừng. Thái độ của tôi là thái độ Mật Tông, không
là của Du già. Tôi đề cập đến Patanjali cho những cá nhân nào không thể thấu hiểu
Mật Tông. Nếu không, thái độ tôi là dành cho Mật Tông. Mọi người đều được đón
nhận. Khi Thượng Đế chào mừng bạn, tôi là ai? Khi toàn thế giới hổ trợ bạn, vạn
hữu chịu đựng bạn, không chỉ chịu đựng, cho bạn năng lượng và sự sống. Nếu bạn phạm
tội, vạn hữu không bao giờ nói là “Không, không cho năng lượng cho ngươi nữa.
Vì ngươi đã làm quá nhiều việc phi lý.” Không, năng lượng vẫn được mang cho. Sự
sống không ngừng hỗ trợ bạn.
Chuyện đã xảy
ra, một huyền môn Hồi giáo, Junnaid, có một lần, vấn Thượng Đế về hàng xóm của
ông, “Người này quá ác độc. Ông ta gây nên nhiều sự quỷ quái trong toàn bộ thị
trấn. Mọi người đều tìm đến con và bảo con: “Xin ngài hãy cầu xin Thượng Đế, cầu
nguyện với Thượng Đế hãy loại bỏ ông.” Junnaid nghe trong lời cầu nguyện của
ông có tiếng vang vọng “Ta đã chấp nhận họ, ngươi là ai mà muốn loại trừ ông
ta?” Junnaid viết trong tự truyện “Tôi không bao giờ cầu nguyện với ngài như vậy
nữa. Tôi thật là vô minh. Nếu ngài đã sinh ra người này, nuôi dưỡng ông, không
những sống mà còn vui vẻ nữa, vậy ta là ai mà đòi can dự?”
Mật Tông là
dành cho tất cả. Không phải dành cho những con người thiên bẫm. Nó trở thành
con đường của những con người được chọn lựa bởi không phải ai cũng hiểu nó. Nó
không dành riêng cho bất cứ một ai, mà cho tất cả mọi chúng sinh. Cho những ai
muốn sẵn sàng lao mình vào. Hãy nỗ lực để hiểu…
“Nếu con thoát
khỏi mọi tham đắm
Hoặc không còn
bám víu vào giả tưởng.
Con sẽ thấu rõ
được chân nghĩa của Kinh tạng.
Khi con miên mật
trong Đại Thủ Ấn,
mọi tội lỗi đều
bị đốt sạch…”
Đại Thủ Ấn là
gì? Chuyện gì xảy ra? Đại Thủ Ấn là trạng thái của tự tánh, khi bạn không còn
chia cách từ vạn hữu. Đại Thủ Ấn như là một chân tình sâu sắc đối với vạn hữu.
Khi đôi tình nhân yêu nhau, họ đầy chân tình. Khi người nữ không là nữ, khi người
nam không là nam, họ trở thành một vòng tròn âm dương, hợp nhất vào nhau, tan
chảy vào nhau, sự đồng hóa riêng rẽ chấm dứt. Vì vậy, tình yêu rất là đẹp. Trạng
thái này được gọi là Mudra, trạng thái hoà nhập vào nhau trong hoan lạc chân tình
sâu thẳm được gọi là Mudra. Trạng thái cuối cùng của giải thoát với toàn thể được
gọi là Đại Thủ Ấn.
Chuyện gì xảy
ra trong sự đồng nhất? Bạn cần thấu triệt nó, bởi nó giúp bạn nhận thức chìa
khoá bước vào cánh cửa giải thoát cuối cùng. Chuyện gì xảy ra, khi đôi tình
nhân đối mặt… nên luôn nhớ rằng: Đôi tình nhân, không là đôi vợ chồng. Đôi vợ chồng
gần như không xảy ra được bởi vợ và chồng đều đóng vai trò cố định, họ không hợp
nhất trong dòng tan chảy. “Chồng” biến thành một vai trò. “Vợ” trở thành là một
vai trò. Họ hành. Người vợ phải xử sự như một người vợ dù cô muốn hay không.
Người chồng phải xử sự như một ngoài cùng nhất . Điều này theo luật pháp.
Có một lần, tôi
hỏi Mulla Narasruddin, “Anh đã kết hôn bao nhiêu năm rồi, Mulla?’ Anh đáp, “Khi
ngài trông thấy vợ tôi, ngài sẽ biết.” Vợ và chồng là hiện tượng xã hội… một cơ
sở, không là mối quan hệ. Nó là một tổ chức. Một hiện tượng bắt buộc… không vì
tình yêu, nhưng vì các lý do khác: bảo đảm kinh tế, an toàn, con cái, văn hoá,
tôn giáo, tất cả, ngoại trừ tình yêu. Sự hợp nhất gần như không thể xảy ra giữa
đôi vợ chồng, ngoại trừ họ là đôi tình nhân. Có thể xảy ra, bạn có thể là một ngoài
cùng nhất, hay một người vợ, hay tình nhân. Bạn có thể yêu vợ. Như vậy đã hoàn
toàn khác rồi. Không còn là hôn nhân nữa. Không còn là một cơ sở nữa.
Tại Đông
phương, hôn nhân hiện hữu hàng nghìn năm. Họ quên mất hạnh phúc là gì. Tôi chưa
bao giờ gặp một người phụ nữ Ấn thật sự hạnh phúc. Mọi người quên mất hoan lạc
là gì. Một vài phụ nữ Tây phương, trong vòng một vài năm, hai mươi lăm năm, nhận
biết rằng hạnh phúc là điều có thể thành tựu. Nếu không, phụ nữ quên mất rằng, qua
bản thân, họ có thể hạnh phúc. Đây là một vấn đề thiếu may mắn nhất xảy ra cho
nhân loại. Khi phụ nữ không hạnh phúc, người nam không thể hạnh phúc, bởi hạnh
phúc là sự gặp gỡ của cả hai. Chỉ có hai, họ mới có thể trong dòng tuôn chảy. Không
phải là người này hạnh phúc, người kia không. Không thể nào. Giải phóng là việc
có thể. Yên nghỉ là việc có thể, nhưng không phúc lạc.
Vậy, phúc lạc
là gì?
Phúc lạc là trạng
thái khi thân bạn không cảm giác như vật thể. Nó chấn động như năng lượng điện
lực. Nó chấn động thật sâu sắc, từ nền tảng. Bạn hoàn toàn quên lãng đây là vật
thể. Nó biến thành hiện tượng điện lực. Nó là hiện tượng điện lực. Hiện tại,
các nhà vật lý cho rằng không có vật thể, rằng mọi vật chất chỉ là bề ngoài. Lớp
tận cùng trong thân bạn nơi vật chất không còn hiện diện, chỉ là các tần số
năng lượng. Bạn biến thành năng lượng luân vũ, chấn động. Không còn các biên giới
với bạn… đang rung động, không thực. Người yêu của bạn cũng rung động.
Mỗi ngày qua, nếu
họ yêu nhau, họ quy phục lẫn nhau. Họ từ bỏ giây phút rung động, của chấn động,
của năng lượng bản thể. Họ không sợ hãi… Nó như cái chết khi thân mất đi ranh
giới, khi thân như bốc hơi, khi thân bốc hơi mãnh liệt, chỉ năng lượng còn lại.
Một giai điệu siêu vi tế. Bạn trực nhận chính bạn như bạn không là… Chỉ có lòng
nhân ái sâu sắc, con người vận hành trong nó. Tình yêu như cái chết. Khi bạn chết,
nếu đề cập đến biểu tượng vật chất. Bạn chết nếu như bạn đang tư duy bạn là
thân: Bạn chết như là thân, tiến hoá như năng lượng, năng lượng sinh động…
Khi đôi vợ chồng,
hay đôi tình nhân, khởi sự chấn động trong giai điệu, trái tim đập nhịp, thân tâm
hợp nhất, nó trở thành sự hòa hợp. Khi chân tình xảy đến, họ không còn là hai.
Đó là biểu tượng của Âm và Dương. Âm chuyển động trong Dương. Dương vận hành
trong Âm. Họ là một. Họ là một vòng tròn, và cùng chấn động. Họ chia cách, họ biến
thành một âm điệu, một sự hòa hợp. Nó là bản nhạc siêu vượt nhất. Mọi lời nhạc
chỉ là sự hạ đẵng nếu so sánh với nó, vô cùng nông cạn nếu so sánh với nó. Sự
chấn động của cả hai là một trong sự hợp nhất. Khi vẫn sự kiện như vậy xảy đến,
không với người khác, nhưng với vạn thù, đây là Đại Thủ Ấn. Đây là cực lạc tối
thượng nhất. Nó xảy ra, tôi có thể chia sẻ chính bạn tu tập nó. Đại Thủ Ấn là sự
cực lạc tối thượng nhất.
Tại Nam dương,
có một nhân vật hiếm có, Bapak Subuh. Ông vô tình khám phá một phương pháp gọi
là Latihan. Latihan là một trong những pháp Mật Tông cổ xưa nhất. Không phải là
một hiện tượng mới. Latihan là bước đòi tiền hướng về Đại Thủ Ấn. Nó cho phép
thân chấn động, cho phép thân trở thành năng lượng, vô vật chất, vô thực, cho
phép thân hòa tan ra và phân hủy mọi biên giới. Bapak Subuh là người Hồi, nhưng
sự chuyễn động của ông được biết là “Subuh”. Từ ngữ này là Phật ngữ. Subuh, bắt
nguồn từ ba từ ngữ: “su”, “bu”, “dha” có nghĩa là Sushila. “Bu” có nghĩa là Phật.
“Dha” có nghĩa là Dharma, pháp. Subuh có nghĩa là Sushila Buddha Dharma. Có nghĩa
là: Pháp Vân Tam Muội (The Law of Great Virture) phát xuất từ Đức Phật. Pháp
Vân Tam Muội, đây là điều mà Tilopa tuyên dương là Đại Bảo Ấn.
Latihan khá đơn
giản. Nó là bước đầu tiên. Hành giả phải đứng thoải mái, buông xả và tự nhiên.
Tốt hơn nếu bạn đứng một mình. Không có ai ở đó phiền não bạn. Đóng cửa phòng lại,
đứng một mình. Nếu có ai đã vào Latihan, sự hiện diện của người này có thể giúp
đỡ. Chính sự hiện diện của người này hoạt động như chất xúc tác. Ông là người khai
mở. Nếu có ai đã tu tập trước bạn một chút, có thể khai mở bạn rất dễ dàng. Bạn
cũng có thể khai mở cho bạn. Cần một chút thời gian. Nếu không, có người khai mở
thì tốt. Nếu người khai mở đứng bên cạnh bạn, ông khởi động Latihan. Bạn đứng
yên và năng lượng ông bắt đầu rung động với bạn, và vận hành chung quanh bạn,
như làn hương, ông bao phủ bạn… đột nhiên, bạn nghe như có tiếng nhạc, như ở đâu
đó, có âm thanh ca sĩ thật hay, hay là có ai đang dạo đàn. Bạn bắt đầu nhịp
chân, hay gỏ nhịp vào ghế, hay là bạn đang rung động với nó. Năng lượng sâu sắc
bên trong người này chuyển động. Nguyên căn phòng và phẩm tính của căn phòng
thay đổi ngay.
Bạn không cần
làm gì hết. Bạn chỉ đứng đó, buông xả và tự nhiên, chỉ chờ đợi xảy ra. Nếu thân
bạn bắt đầu chuyển động, bạn cho phép nó. Bạn chỉ hợp tác và cho phép. Sự hợp
tác không quá trực tiếp. Nó đừng trở thành sự thúc đẩy. Nó vẫn giữ sự cho phép.
Thân bạn vận hành bất ngờ, như bạn bị hớp hồn, như có năng lượng lớn lao từ
trên cao sa xuống bạn, như có vầng mây bao phủ bạn… Bạn hoàn toàn bị vầng mây
chiếm hữu. Vầng mây đó thấm sâu trong bạn. Bạn bắt đầu bước những điệu vũ luân
vũ nhỏ, cử chỉ nhẹ nhàng, thân bạn hoàn toàn bị ngự trị. Nếu bạn biết về văn
phong tự động, sẽ dễ dàng theo dõi những gì đang xảy ra trong Latihan. Trong
văn phong tự động, bạn cầm cây viết chì, nhắm mắt, chờ đợi. Đột nhiên, bạn cảm giác
tay bị giật mạnh. Tay bạn như bị ma ám, có ai nhập hồn. Bạn không làm gì hết,
đơn thuần cho phép. Buông xả và tự nhiên. Nếu bạn hành động, tất nhiên không phải
phát xuất từ sự siêu việt. Nó sẽ là tác động của bạn. Buông xả và tự nhiên,
ngôn ngữ của Tilopa thật là tuyệt vời. Không thể cải tiến hơn được. Buông xả và
tự nhiên, với cây viết chì trong tay, khi tay bị giật mạnh, và tay bắt đầu chuyển
động, bạn cho phép nó. Đừng cưỡng lại vì bạn có thể cưỡng lại. Nếu bạn ngăn cản
nó, nó có thể bị ngăn cản.
Năng lượng này
vô cùng vi tế. Lúc bắt đầu, không mãnh liệt lắm Nếu bạn ngăn chặn nó, nó có thể
ngăn chặn được. Năng lượng không nông nỗi lắm. Nếu bạn không cho phép, nó không
đến. Nếu bạn nghi ngờ, nó không xảy ra, bởi nghi ngờ, tay bạn sẽ giữ lại. Khi
nghi ngờ, bạn không cho phép, bạn cưỡng lại. Vì vậy, tin cậy rất có ý nghĩa.
Shaddha, bạn
đơn thuần tin cậy và không giữ tay lại. Tay sẽ khởi động. Khi tay khởi động viết
ngoằn ngèo trên giấy, cho phép nó. Có ai hỏi bạn, hay bạn hỏi, hãy hỏi, buông xả
tâm, không cưỡng ép, chỉ hỏi và chờ đợi. Đột ngột, câu hỏi được giải đáp. Nếu
mười người thử, để cho ba người tuyệt đối có khả năng thực hành văn phong tự động.
Ba mươi phần trăm không tin là họ có khả năng tiếp nhận.
Sự kiện này có
thể trở thành lực lượng mạnh mẽ trong cuộc đời bạn. Giải thích tuy khác nhau, chuyện
gì xảy ra không quan trọng… Lời giải thích sâu sắc nhất mà tôi nghiệm thấy rất
là thật là trung tâm cao nhất sẽ khống chế trung tâm thấp nhất. Đỉnh tối cao nhất
của tâm thức sẽ khống chế tâm vô thức thấp nhất. Bạn hỏi, nội tại của bản thể
giải đáp cho bạn. Không có ai ở đó, chỉ bản thể nội tại, Tánh bạn không biết,
vô cùng siêu việt trên bạn.
Tận cùng cốt
lõi bản thể là khả năng khai hoa tối thượng của bạn. Nó như một đóa hoa ngự trị
hạt giống và sự giải đáp. Hạt giống không biết, nhưng đóa hoa… như tiềm năng của
bạn chiếm hữu thực tại và sự giải đáp, như tiềm năng tối thượng chiếm hữu quá
khứ. Sự bất khả tri chiếm hữu sự khả tri.
Vô hình tướng
chiếm hữu hình tướng… và mọi ẩn dụ. Tôi cảm nhận bạn sẽ hiểu sự trọng đại này… như
tuổi già của bạn chiếm hữu tuổi ấu nhi của bạn, và mọi lời giải đáp. Latihan xảy
ra như vậy với toàn châu thân. Trong văn phong tự động, bạn để tay bạn buông xả
và tự nhiên. Trong Latihan, bạn để toàn châu thân buông xả và tự nhiên. Trong
Latihan, bạn cảm giác sự thúc đẩy. Tay tự giơ lên, như có ai giật tay bạn bằng
sợi dây vô hình. Cho phép nó. Chân bạn chuyễn (chuyển) động, bạn bắt đầu nhảy múa,
rất náo động, không âm điệu, không thao tác, mỗi giây phút trôi qua, bạn chìm đắm
sâu hơn. Âm điệu tự nó vang lên. Không còn náo động. Nó tự động theo lệnh nó,
trở thành một kỷ luật, nhưng không ép đặt bởi bạn. Đây là tiềm năng tối thượng nhất
của bạn chiếm hữu thân thấp nhất của bạn và vận hành nó.
Latihan là bước
đầu tiên. Càng thực tập, bạn càng cảm giác phúc lạc thực tập nó. Bạn sẽ cảm giác
như có một sự gặp gỡ giữa bạn và vũ trụ. Đây là chỉ là bước đầu tiên. Vì vậy,
trong Subuh, có gì bị đánh mất. Chính bước đầu tiên cực kỳ vi diệu, không phải
là bước cuối cùng. Tôi muốn bạn thực hành nó, ít nhất cũng chừng ba mươi phút.
Sáu mươi phút càng tốt. Càng tu tập, từ ba mươi phút, bạn tăng lên sáu mươi
phút điệu nhảy Latihan.Trong sáu mươi phút, từ lỗ chân lông đến lỗ chân lông, từ
tế bào qua tế bào, được thanh lọc.
Đây là sự thanh
tẩy. Bạn đổi mới hoàn toàn. Mọi ô nhiễm đều được thanh tẩy. Đó là những gì
Tilopa đã dạy. Khi con miên mật trong Đại Thủ Ấn, mọi tội lỗi đều bị đốt sạch…
Mọi quá khứ đều bị ném trong ngọn lửa. Đây là một sự tái sinh. Bạn cảm giác
năng lượng như cơn mưa rào cùng khắp trên bạn, trong và ngoài. Cơn luân vũ
không chỉ bên ngoài. Không sớm thì muộn, bạn hài hoà với nó. Bạn sẽ cảm giác điệu
luân vũ của nội tại. Không chỉ có thân bạn nhảy múa, bên trong năng lượng cũng khiêu
vũ. Chúng hợp tác lẫn nhau. Từ đó, sự rung cảm xảy ra. Bạn trực nhận bạn rung cảm
với vũ trụ. Bạn đã khám phá giai điệu của vũ trụ. Ba mươi đến sáu mươi phút thời
gian. Bắt đầu với ba mươi phút, sau đó, kết thúc với sáu mươi phút. Cách khoảng
hai thời gian đó, bạn sẽ thấy thời gian thích hợp. Bạn sẽ nhận biết. Nếu bạn cảm
giác hài hoà với bốn mươi phút, thì đó là thời gian tu tập cho bạn. Nếu bạn cảm
giác hai mươi phút, thì đó là thời gian tu tập của bạn. Sau đó, sự tham thiền của
bạn phải vượt hơn đó nữa. Nếu bạn cảm giác mười phút thoải mái hơn, hai mươi
phút là cũng đủ.
Nếu bạn thoải
mái tu tập trong mười lăm phút, ba mươi phút sẽ đủ. Gấp đôi thời gian. Đừng chờ
đợi cơ hội. Để bạn thật sự hoàn toàn được thanh tẩy. Kết thúc bằng sự cầu nguyện.
Khi bạn hoàn toàn được thanh tẩy, cảm giác toàn thân được gột rữa và tươi mát.
Bạn mới tắm trong cơn mưa rào của năng lượng. Toàn thân cảm giác như là một,
không phân chia, và tính vật chất trong bạn biến mất. Bạn cảm giác như một nguồn
năng lượng, một sự chuyển động, một quá trình, không thuộc về vật chất… Bây giờ,
bạn sẵn sàng rồi. Quỳ xuống cũng tuyệt hảo. Như tín đồ Hồi giáo huyền môn quỳ,
hay là tín đồ Hồi giáo cầu nguyện trong tu viện của họ. Quỳ như họ, bởi đó là bộ
vị tốt nhất cho Latihan. Sau đó, giơ hai tay lên trời với đôi mắt nhắm lại, cảm
giác chính bạn như bình rỗng, một thân tre rỗng. Bên trong trống rỗng như cái vại
bằng đất. Đầu bạn là miệng vại. Năng lượng đang rơi xuống mãnh liệt trở nên đầu
bạn như bạn đang đứng dưới thác nước. Bạn sẽ thật sự đứng bên dưới… Sau
Latihan, bạn sẽ cảm giác nó. Nó như thác nước ầm ĩ. Không như cơn mưa rào. Khi
bạn sẵn sàng, nó rơi xuống ào ạt, mạnh mẽ. Toàn thân bạn bắt đầu run rẫy, như
chiếc lá trong cơn gió dữ. Nếu bạn đã đứng bên dưới dòng thác đổ một vài lần, bạn
sẽ biết. Nếu bạn chưa đứng bên dưới dòng thác đổ, nên thử cho biết. Bạn sẽ có cảm
giác như vậy sau khi tu tập Latihan. Cảm giác chính bạn trống rỗng bên trong.
Không gì khác ngoài sự trống không, và năng lượng tuôn tràn trong bạn trọn vẹn.
Cho phép nó
tuôn tràn trong bạn càng sâu càng tốt. Để nó có thể thâm nhập vào tận cùng cốt
tủy trong thân tâm và thần thức. Khi bạn cảm giác nó, bạn đã tràn ngập. Toàn
châu thân đều rúng động. Quỳ xuống, cúi đầu sát tận đất, và đổ năng lượng vào đất.
Đón nhận từ trời cao và cho lại quả đất. Bạn chỉ là thân tre trống rỗng ở giữa.
Còn tu tập bảy lần.
Đón nhận từ bầu
trời, hôn mặt đất và đổ xuống… hoàn toàn trống rỗng. Đổ xuống đến cạn kiệt như khi
bạn lúc bạn đón nhận đến đầy tràn. Sau đó, giơ hai tay lên, đón nhận lần nữa, đổ
xuống lần nữa. Thực hành như vậy bảy lần. Bởi mỗi lần như vậy, nó xuyên qua
luân xa (Charkra) của thân. Một trung tâm của thân. Mỗi lần đi sâu vào hơn
trong bạn. Nếu bạn thực hành ít hơn bảy lần, bạn sẽ cảm giác bồn chồn sau đó, bởi
vì năng lượng vẫn còn lờ lững ở giữa.
Nó phải xuyên
suốt qua tất cả bảy luân xa (Charkras) trong thân bạn, để bạn có thể hoàn toàn trống
rỗng, như hành lang. Năng lượng rơi xuống từ bầu trời, và đi vào lòng đất. Bạn
là đất. Bạn đơn thuần gởi năng lượng trở về đất, như dòng điện lực. Với điện lực,
chúng ta phải đặt dây kẻm. Bạn là thân tre rỗng mang về năng lượng. Bảy lần như
vậy. Bạn có thể thực hành nhiều hơn, nhưng không thể ít hơn. Sự tu tập này đã
thành tựu Đại Thủ Ấn.
Nếu bạn tu tập
mỗi ngày, khoảng chừng ba tháng, có một ngày, bạn sẽ cảm giác bạn không còn hiện
hữu. Chỉ năng lượng rung động với vũ trụ… Không một ai hiện hữu. Tự ngã hoàn
toàn biến mất. Hành giả không còn nữa. Vũ trụ tồn tại, và bạn nơi chốn đó. Đợt
sóng rung cảm với đại dương… Đó là Đại Thủ Ấn. Đó là Cực lạc tối hậu. Trạng
thái cực lạc tối thượng nhất của tâm thức.
Chỉ như qua sự
rung cảm của yêu thương, nhưng hằng triệu lần hơn thế nữa. Vẫn cùng một hiện tượng,
nhưng gấp một triệu lần. Bạn đang rung cảm với vũ trụ trong Đại Thủ Ấn. Đó là
lý do, Mật Tông được xem là du già của tình yêu. Mật Tông được xem là con đường
của từ bi. Trong Đại Thủ Ấn, tất cả mọi tội lỗi đều bị dứt sạch. Trong Đại Thủ Ấn,
hành giả được giải thoát từ tù ngục của thế gian.
“Đây là ngọn
Pháp Đăng tối thượng.
Những kẻ nào
thiếu lòng tin vào Đại Thủ Ấn
Chính là người
vô minh,
luôn bị dằn vật
trong khổ đau và phiền não…”
Tilopa dạy rất
rõ ràng...
“Những kẻ nào
thiếu lòng tin vào Đại Thủ Ấn.
Chính là người
vô minh,
luôn bị dằn vặt
trong khổ đau và phiền não…”
Tại sao gọi họ
là vô minh? Ngài không gọi họ là những kẽ tội lỗi. Ngài không gọi họ là những
con người vô đạo. Ngài chỉ đơn thuần gọi họ là vô minh. Vì không tin nó, họ đã
bỏ lỡ niềm cực lạc tối thượng nhất mà sự sống mang đến cho họ. Họ là những kẽ
vô minh! Nó không thể xảy ra ngoại trừ bạn tin cậy. Ngoại trừ sự tin cậy của bạn
nhiều đến mức độ bạn quy phục hoàn toàn. Mọi phúc lạc, những giây phút cực lạc,
xảy ra chỉ khi nào bạn quy phục. Thậm chí, sự chết cũng trở nên hòan mỹ nếu bạn
quy phục với nó. Còn nói về sự sống thì sao?
Nếu bạn quy phục,
dĩ nhiên, sự sống là đại cực lạc. Nó là một ân sủng. Bạn đánh mất tặng phẩm Tối
thượng bởi bạn thiếu lòng tin. Nếu bạn muốn học hỏi điều gì, hãy học hỏi sự tin
cậy. Nếu bạn không cảm giác được ý nghĩa của sự sống. Bạn cảm thấy vô nghĩa,
không gì giúp đỡ, học hỏi lòng tin cậy. Sự tin cậy mang đến ý nghĩa bởi lòng
tin sẽ cho bạn khả năng cho phép vạn hữu hạ phàm xuống bạn…
“Những kẻ nào
thiếu lòng tin vào Đại Thủ Ấn
Chính là người
vô minh, luôn bị dằn vặt trong
khổ đau và phiền
não
Để đạt được sự
Giải Thoát
Con vẫn phải
nương theo một vị Du già
Khi tâm con nhận
được sự gia trì của ngài
Thì con đường
Giác Ngộ ở trong tầm tay…”
Tại sao lại tin
ở vị Du già? Tại sao lại tin minh sư? Bởi chốn bất khả tri rất là xa xăm. Nó chỉ
như là một giấc mơ, cùng lắm là một niềm hy vọng, ao ước thành tựu. Xin hãy lắng
nghe tôi nè. Có lẽ tôi giảng thuyết về cực lạc, nhưng sự cực lạc đó vẫn là một
từ ngữ. Có lẽ bạn khao khát nó, nhưng bạn không biết nó là gì. Bạn không biết
hương vị của nó. Nó quá xa xăm. Bạn đang tràn ngập đau khổ.
Trong sự thống
khổ của bạn, bạn bắt đầu hy vọng. chờ đợi, khao khát cực lạc, nhưng không có ý
nghĩa gì… Bạn cần nếm hương vị của nó. Ai sẽ mang nó cho bạn? Chỉ có người đã nếm
nó. Ngài sẽ là người khai mở. Ngài có thể hành động như một chất thanh tẩy.
Ngài sẽ không làm gì khác, chỉ sự hiện diện của ngài. Từ ngài, sự bất khả tri sẽ
tuôn tràn đến bạn. Ngài như là cửa sổ, chỉ có cửa sổ tâm linh của bạn là bị
khép kín? Mọi cánh cửa của ngài không đóng. Mọi cửa sổ của bạn bị đóng và bạn
không biết cách nào mở chúng ra. Mọi cửa sổ của ngài không đóng. Từ chúng, bạn
có thể nhìn ngắm bầu trời thiên thanh. Thông qua ngài, bạn có thấy được một
thoáng.
Một minh sư, một
du già, không gì ngoài một cửa sổ. Hành giả phải thông qua ngài. Hành giả cần nếm
một chút hương vị. Sau đó, bạn có thể mở cửa sổ của bạn. Nếu không, mọi sự vẫn
chỉ là ngôn ngữ. Bạn có thể đọc về Tilopa. Ngọai trừ bạn tìm thấy Tilopa, không
có gì sẽ xảy ra cho bạn. Tâm bạn vẫn tiếp tục thì thầm “Người này thật điên rồi.
Ông bị ảo tưởng, mơ mộng. Nhất định ông là một triết lý gia, một nhà tư tưởng,
một thi sĩ.” Làm sao có thể xảy ra? Để bạn đạt đến phúc lạc? Bạn chỉ biết có đau
khổ và tranh đấu. Bạn chỉ biết có độc dược. Bạn không biết tiên dược. Bạn không
biết nó, làm sao bạn tin nó?
Một minh sư
không gì ngoài hiện tượng nhân cách hóa của sự phúc lạc toàn diện. Trong ngài,
nó đang rung cảm. Nếu bạn tin ngài, mọi chấn động của ngài sẽ tìm đến bạn. Minh
sư không phải là vị thầy. Ngài không dạy dỗ bạn. Một minh sư không quan tâm đến
giáo điều và nguyên tắc. Một minh sư là sự hiện diện. Nếu bạn tin ngài, ngài sẵn
sàng. Minh sư là sự sẵn sàng. Xuyên qua ngài, bạn sẽ có một thoáng cảm nhận đầu
tiên về sự toàn thiện. Từ đó, bạn có thể tự mình hành trình…
“Để đạt được sự
Giải Thoát
Con vẫn phải
nương theo một vị Du già
Khi tâm con nhận
được sự gia trì của ngài
Thì con đường
Giác Ngộ ở trong tầm tay…”
Minh sư không
thể cho bạn sự Giải thoát, nhưng ngài có thể giúp mang đến cho bạn viên gạch của
nó. Ngài không thể cho bạn sự Giải thoát. Điều đó, bạn phải tự mình thành tựu.
Những gì được cho, sẽ bị kẻ khác lấy đi. Chỉ có những gì bạn sở hữu mới thuộc về
bạn. Minh sư không thể cho bạn. Ngài chỉ gia trì bạn. Sự gia trì của ngài là một
hiện tượng sinh động. Xuyên qua ngài, bạn có thể nhìn thấy tương lai của bạn.
Xuyên qua ngài, bạn có thể nhận biết đinh mệnh của bạn. Xuyên qua ngài, mọi đỉnh
cao tối thượng gần hơn. Xuyên qua ngài, bạn nẩy sinh, như hạt giống đang nẩy mầm
hướng về bầu trời xanh. Sự gia trì của ngài có thể tưới lên hạt giống.
Tại Đông
phương, sự gia trì của minh sư vô cùng trọng đại. Tây phương hoàn toàn không nhận
biết hiện tượng này. Tây phương nhận biết các vị thầy, không phải là các minh
sư. Các vị thầy là những người dạy bạn Chân lý. Minh sư là người giúp bạn nếm
hương vị của nó. Một vị thầy có lẽ là một người chưa nhận biết chính mình. Có lẽ
ông còn phải học hỏi từ các vị thầy khác. Tìm kiếm minh sư. Các bậc thầy thì
nhiều vô kể, nhưng minh sư thì vô cùng hiếm. Làm sao bạn tìm thấy một minh sư?
Chỉ vận hành. Mỗi khi bạn nghe đồn về một người nào đó đã giác ngộ, tìm đến và
sẵn sàng.
Đừng là một nhà
tư tưởng. Hãy là một tình nhân, bởi minh sư tìm thấy qua cảm thọ. Một vị thầy
tìm thấy qua tư duy. Lắng nghe một vị thầy. Sự hấp dẫn luân lý sẽ hiện hữu. Sự
tranh biện của ông. Đón nhận minh sư. Lắng nghe không giúp ích gì. Ngài là một
hiện tượng sống. Năng lượng nơi đó. Nếu bạn đón nhận ngài, chỉ vậy, bạn sẽ nhận
biết phẩm hạnh khác của bản thể.
Sự tiếp nhận cần
có. Sự tiếp nhận lớn lao nữ tính cần có để tìm tới minh sư. Nếu bạn sẵn sàng,
minh sư tại thế hiện diện. Đột nhiên, có một sự tương thông. Không cần thành
toàn gì ở phần bạn. Bạn đơn thuần hiện diện. Nó quả là hiện tượng năng lượng
sinh động. Nếu bạn sẵn sàng, sẽ có sự tương thông. Bạn được đón nhận. Đây là hiện
tượng tình thương. Bạn không thể chứng minh với ai “Tôi đã tìm thấy minh sư.”
Không có chứng minh. Đừng cố gắng bởi mọi người sẽ tìm chứng minh để chống đối
bạn. Bạn đã tìm thấy người. Bạn nhận biết ngài. Bạn nếm hương vị của nó, và bạn
nhận biết nó. Tri kiến này thuộc về trái tim, của sự cảm thọ…Tilopa dạy…
“Để đạt được sự
Giải Thoát
Con vẫn phải
nương theo một vị Du già
Khi tâm con nhận
được sự gia trì của ngài
Thì con đường
Giác Ngộ ở trong tầm tay…”
Chính từ ngữ
“Du già” đủ tràn đầy ý nghĩa. “Minh sư” không mang sự trọng đại đó. Minh sư có vẻ
là một người đã làm chủ một cái gì rồi, dưới sự huấn luyện trường kỳ, trở nên kỷ
luật, đã trở thành minh sư. “Du già” thì khác hơn. Từ ngữ “Du già” có nghĩa là
một đám mây vần vũ, nặng nề, chờ đợi bạn khác nước, lần tuôn tràn xuống cho bạn.
Một cánh hoa choáng ngợp hương thơm chờ đợi bạn và sẽ xuyên suốt qua bạn. Từ ngữ
”Du già” có nghĩa là năng lượng nặng nề, và sự bất khả tri, đè nặng với sự
thiêng liêng, nặng nề như người phụ nữ đang mang thai.
Minh sư là người
thai nghén Thượng Đế. Vì vậy, tại Đông phương, chúng ta gọi Du già, hiện thân của
Thượng Đế. Tây phương không thể hiểu bởi họ tư duy rằng Thượng Đế là Đấng Sáng
tạo của thế gian. Chúng ta không bận tâm về một đấng Sáng tạo. Chúng ta gọi
ngài là Du già, Thượng Đế.
Tại sao? Bởi
ngài thai nghén sự thiêng liêng. Ngài trĩu nặng sự thiêng liêng. Ngài sẵn sàng
đổ xuống. Chỉ cơn khát của bạn. Cơn khát mặt đất đang cần. Ngài không quán triệt
tất cả. Thật ra, ngài chưa xuyên qua mọi huấn luyện. Ngài chưa kỷ luật ngài. Không
phải là một nghệ thuật mà ngài trở thành minh sư. Không, ngài sống sự sống
trong sự trọn vẹn của nó. Không như là một kỷ luật, nhưng buông xả và tự nhiên.
Ngài không cưỡng ép ngài.
Ngài chuyển động
với gió. Ngài cho phép thiên nhiên tự tại với nó. Xuyên suốt hàng triệu kinh nghiệm
đau khổ và phiền não, cực lạc và hạnh phúc, ngài trưởng thành, chín muồi. Một
Du già là trái chín chỉ đợi rơi xuống, nặng trĩu. Nếu bạn sẵn sàng đón nhận,
ngài rơi xuống bạn.
Một Du già hoàn
toàn là hiện tượng của Đông phương. Tây phương vẫn chưa nhận biết. Tại Tây phương,
thật khó cảm nhận. Tại sao tìm đến và bái lậy một Du già? Tại sao cúi sát đầu bạn
ở chân ngài? Thật xấu hổ. Nhưng nếu bạn muốn đón nhận, bạn phải bái lậy. Ngài nặng
trĩu. Ngài có thể đổ xuống. Ngọai trừ bạn bái lậy, nếu không, bạn không thể nhận.
Khi một môn đồ với sự tin cậy hoàn toàn, bái lậy dưới chân minh sư của ông, sẽ
có sự xảy ra, vô hình với đôi mắt thịt. Năng lượng tuôn tràn từ minh sư, đi vào
môn đồ. Một điều gì đó, vô hình trong đôi mắt trần tục, đang xảy ra. Nếu bạn nhận
biết, bạn có thể trông thấy. Hào quang của minh sư. Cầu vòng của ngài, tan chảy
xuống môn đồ. Bạn sẽ nhận biết nó, thực sự xảy ra.
Minh sư nặng
trĩu với năng lượng tối thượng. Ngài có năng lượng vô tận. Ngài có thể gia trì
với vô lượng số môn đồ. Ngài có thể gia trì với hàng triệu môn đồ. Ngài không
bao giờ kiệt quệ bởi ngài tương thông với vạn hữu. Ngài đã tìm thấy căn nguyên
của tất cả. Xuyên suốt qua ngài, bạn có thể lao mình vào vực thẳm. Quy phục hướng
về Thượng Đế khó khăn bởi bạn không biết Thượng Đế nơi nào. Ngài không bao giờ
cho địa chỉ với bất cứ ai. Nhưng một Du già có thể tìm thấy ngài. Nếu bạn hỏi
tôi, Du già là gì. Tôi sẽ bảo bạn: Du già là địa chỉ của Thượng Đế.
Khi bạn có lòng
tin kiên định bạn được đón nhận. Khi bạn cảm giác sự gia trì của minh sư tuôn tràn
đến bạn, như cơn mưa hoa rơi tầm tã trên bạn, con đường giác ngộ, chắc chắn ở tầm
tay…
Đã xảy ra: Một
trong những môn đồ của Đức Phật, Xá Lợi Phất, có một ngày, kính cẩn quì lạy Đức
Phật. Đột nhiên, ông cảm giác năng lượng rơi xuống ông. Ông cảm giác sự hóan
chuyển đột ngột, một sự hoán đổi toàn bộ tâm. Như ông đã bị tiêu trừ, và được
tái sinh lần nữa. Ông kêu lên “Không, xin ngài đợi một chút.” Toàn bộ tăng
chúng, môn đồ vô lượng số môn đồ của Đức Phật không hiểu chuyện gì xảy ra. Ông
kêu lên “Xin ngài đợi một chút. Quá sớm.” Đức Phật hỏi. “Tại sao?” Ông nói, “Đôi
chân ngài sẽ là sự mất mát của con. Xin ngài đợi lâu hơn một chút nữa. Giải
thoát trong tầm tay, nhưng con muốn được gần gũi với ngài lâu hơn một chút nữa.
Đừng thúc đẩy con thành tựu quá sớm."
Minh sư đã gia
trì, và sự Giải thoát trong tầm tay. Đây là bước cuối cùng. Hành giả phải giả từ
minh sư. Xá Lợi Phất kêu lên “Khoan đã.” Xá Lợi Phất chứng ngộ sau đó. Đức Phật
dạy ông “ Bây giờ con nên đi. Ta đợi lâu rồi. Con nên đi, truyền giảng những gì
ta đã dạy con. Hãy đi và hóa độ chúng sinh."
Xá Lợi Phất phải
ra đi, nước mắt tuôn tràn. Có người hỏi. “ Ngài đã đắc ngộ rồi sao ngài lại còn
khóc lóc?’” Ông bảo “Vâng, tôi đã giải thoát, nhưng tôi có thể nếm hết mọi cực
lạc Giác ngộ nếu Đức Phật cho phép tôi được sống dưới chân ngài.”
Lòng biết ơn thật
sâu đậm. Sau đó, bất cứ nơi nào mà Xá Lợi Phất sống, mỗi sáng, ông quì lạy hướng
về nơi Đức Phật hóa độ. Mọi người hỏi ông nhiều lần, “Tại sao ngài lại xử sự
như vậy? Ngài quì lạy ai?” Ông đáp, “Đức Phật đang hóa độ ở miền Nam.”
Ngày cuối cùng
của Xá Lợi Phất đến, ông yêu cầu “Đức Phật ở nơi nào rồi? Bởi tôi muốn chết khi
bái lậy ở nơi ngài đang hóa độ.” Và ông tịch diệt khi ông đang quì lạy hướng về
nơi mà Đức Phật đang sống. Khi năng lượng được đón nhận, khi ân huệ cuối cùng đến
từ minh sư, Giải thoát nằm trong tầm tay. Hành giả phải giả từ… Trong Thiền,
khi một môn đồ tìm đến minh sư tại Nhật, ông mang tấm nệm đến. Ông sẽ trải tấm
nệm trước minh sư, kiết già trên tấm nệm, lắng nghe lời dạy của minh sư. Mỗi ngày
tìm đến, thụ huấn những gì mà ngài đã dạy, để tấm nệm nơi đó… hằng bao nhiêu
năm. Sau đó, có một ngày, ông nhận sự gia trì cuối cùng, ông cuộn tấm nệm lại,
ôm tấm nệm, quì lạy, rời xa minh sư. Tấm nệm đó là biểu tượng. Mỗi khi môn đồ
cuộn tấm nệm lại, rời xa minh sư, mọi người biết rằng ông đã nhận ân sủng. Đây
là sự giả từ cuối cùng…
“Thực vậy, mọi
pháp trong thế gian đều vô nghĩa
Chúng đều mang
hạt giống phiền não
Những lời giảng
dạy thiển cận thường đưa đến
những hành động
sai lầm
Hãy nương theo những
giáo pháp rộng lớn hơn.”
Trong thế giới
này, mọi sự đều là hạt giống của phiền não. Nhưng luồng ánh sáng chiếu rọi mỗi
khi có một người giác ngộ. Trong thế gian này, mọi sự đều là hạt giống của phiền
não, nhưng luồng ánh sáng đến từ cõi tối thượng nếu có một người nào chứng quả
vị. Theo sau luồng ánh sáng, bạn tìm đến chính cội nguồn căn nguyên của ánh
sáng, vầng thái dương. “Và hãy nhớ…” Tilopa dạy “Đừng trở thành nạn nhân của
các giáo pháp vô nghĩa.” Có nhiều người tìm đến tôi bảo “Chúng con trường chay,
vậy có thể giúp chúng con đạt được giải thoát hay không?” Một pháp cực kỳ hạ đẳng.
Họ bảo “Chúng con không ăn tối. Điều này có giúp chúng con giác ngộ hay không?”
Họ lại hỏi “Chúng con tin ở tịnh thân.” Một pháp cực hạ đẳng. Họ tu tập nhiều
thứ, nhưng có một điều họ lại không tu tập, đó là Chân Tánh của họ. Họ chế ngự
cá tính của họ. Họ muốn trở thành một hiền nhân, nhưng chỉ là sự trang điểm. Một
môn đồ từ bên ngoài là sự trang trí. Mọi sự vẫn là trang trí. Nó cần tỏa rộng
hướng về ngoại biên từ trung tâm. Nó không nên bị cưỡng ép từ ngoại biên hướng
về trung tâm.
Giáo pháp rộng
lớn là: Bạn đã là những gì bạn sẵn có…Nhận thức điều này. Bạn đã là mục tiêu.
Hãy nhận biết điều này. Ngay chính giây phút này, đinh mệnh của bạn đã thành tựu.
Bạn đang chờ đợi điều gì? Đừng tin ở Tiệm ngộ. Hãy lao mình vào! Hãy dũng cảm!
Chỉ có người dũng cảm mới có thể theo sau giáo pháp rộng lớn hơn của Mật Tông.
Sợ hãi tử thần, sợ hãi đánh mất chính bạn, sợ hãi phải quy phục. Bạn trở thành
nạn nhân của mọi pháp thấp kém. Đừng ăn cái này, đừng ăn cái nọ. Đừng tu tập pháp
này, đừng tu tập pháp nọ. Bạn kiềm chế. Bạn luôn tự chủ. Giáo pháp rộng lớn là
quy phục, quy phục sự tự chủ của bạn, và để Toàn thể mang bạn đến bất cứ nơi
nào mà nó muốn đưa bạn đến. Đừng bơi ngược dòng chảy. Hãy buông xả chính bạn
trong dòng sông. Trở thành dòng sông… Và dòng sông sẵn sàng trôi về đại dương.
Đây là giáo pháp rộng lớn…
Chú thích:
41 Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của
danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý
(cetana). Tư tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi xuất do "ý muốn
làm" tạo động cơ. Phật Giáo gọi ý muốn làm ấy là Tác ý (cetana). Tất cả những
hành động có tác ý, dầu biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý , đều tạo Nghiệp. Tất
cả những hành động có tác ý, thiện hay bất thiện, đều tạo Nghiệp. Những hành động
không có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không tạo
Nghiệp. Đức Phật dạy: "Nầy hỡi các Tỳ Khưu, Như Lai xác nhận rằng chính
Tác ý là Nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động, bằng thân, khẩu hay ý ".
(Đức Phật và Phật Pháp – Chương 19: Nghiệp là gì? Bản Việt dịch của Phạm Kim
Khánh)
42 “Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh
thì không tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào bởi vì kẻ ấy đã giác
ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những người chưa giác ngộ vì những người đó còn trong
vòng u tối vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra giòng đầu thai, luân hồi ở
địa ngục, làm thú và làm người. Tất cả nợ tinh thần (nghiệp chướng) chấm dứt
ngay khi giác ngộ phá hủy vô minh. Bậc giác ngộ không làm nên tội lỗi và cũng
không phạm tội nữa.”
43 “Trang Tử cho rằng tất cả muôn vật,
vật nào cũng có cái ‘Đức’ của nó, do cái ‘Đạo’ nơi mình mà phát huy ra. Chữ Đức
ở đây không có cái nghĩa thông thường về luân-lý như phái Nho-gia đã dùng, mà
nó dùng để chỉ cái Tánh tự-nhiên của mỗi vật, tức là chỗ mà Lão Tử gọi là ‘kiến
Tố’, và nhà Phật gọi là ‘kiến Tánh’ (…) Cái động tác của Đức rất tự-nhiên,
không cố cưỡng, nên gọi nó là ‘Vô Vi’. Nếu biết thuận theo Tánh tự-nhiên ấy mà
sống thì hạnh phúc có ngay liền trước mắt, không cần cầu cạnh đâu khác ngoài
mình.” (Trang Tử Nam Hoa Kinh, trg. 131 - Bản dịch và bình giải của Thu Giang
Nguyễn Duy Cần).
Xem tiếp Chương 7 – Quay về Mục lục