Osho –
Tín Tâm Minh – Sách về cái Không
Chương
10: Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay
Trống rỗng ở đây, trống rỗng ở kia,
nhưng vũ trụ vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt ông.
Lớn vô hạn và nhỏ vô hạn; không khác
biệt, vì các định nghĩa đã tan biến và không biên giới nào thấy được.
Cho nên điều đó cũng đúng với hiện hữu
và không hiện hữu.
Đừng phí thời gian trong hoài nghi và
biện luận mà chẳng liên quan gì với điều này.
Một điều, mọi điều: di chuyển trong
và quyện lẫn nhau, không phân biệt.
Sống trong hiểu biết này là hiện hữu
không lo âu về không hoàn hảo.
Sống trong niềm tin này là con đường
đi tới bất nhị, bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin cậy.
Lời!
Đạo vượt ra ngoài ngôn ngữ, vì trong
nó không có hôm qua, không có ngày mai, không có hôm nay.
Con người bị lạc
bởi vì lời, kí hiệu, ngôn ngữ. Bạn không lạc trong thực tại, bạn lạc trong mơ
ngôn ngữ - bởi vì thực tại này bao giờ cũng có đó ngay trước bạn, nhưng bạn
không phải bao giờ cũng ở đó ngay trước thực tại. Bạn ở đâu đó khác, bao giờ
cũng ở đâu đó khác, bởi vì bạn là tâm trí và tâm trí có nghĩa là cái gì đó đi lạc
lối.
Tâm trí có
nghĩa là bây giờ bạn không nhìn vào cái đang hiện hữu, bạn đang nghĩ về nó. Cái
‘về’ là vấn đề, cái ‘về’ là cách thức bỏ lỡ thực tại. Triết lí là cách bỏ lỡ thực
tại. Khoảnh khắc bạn nghĩ về nó, cái đích sẽ không bao giờ được đạt tới.
Suy nghĩ là gì?
Nó là việc thay thế. Nếu bạn biết yêu, bạn chẳng bao giờ nghĩ về nó cả. Không cần
nghĩ về nó. Nếu bạn không biết yêu, bạn nghĩ về nó - thực sự, bạn không nghĩ về
bất kì cái gì khác. Làm sao bạn có thể biết yêu qua suy nghĩ? - bởi vì nó là
kinh nghiệm tồn tại. Nó không phải là lí thuyết, nó không phải là nghiên cứu. Để
biết nó, bạn phải là nó.
Tại sao tâm trí
nghĩ về mọi vật mà không được kinh nghiệm? - bởi vì đây là việc thay thế; toàn
bộ bản thể cảm thấy cần, cho nên phải làm gì? Chỉ nghĩ về nó bạn cảm thấy một
chút ít dễ dàng, dường như cái gì đó đang xảy ra, dường như bạn đang kinh nghiệm.
Nó xảy ra trong mơ, nó xảy ra trong khi bạn thức - bởi vì tâm trí vẫn còn như
cũ dù bạn ngủ hay thức.
Mọi mơ đều là
cái thay thế và mọi suy nghĩ cũng vậy, bởi vì suy nghĩ là mơ trong khi thức, mơ
là suy nghĩ trong khi ngủ. Chúng không khác nhau về chất, chúng là cùng một tiến
trình. Nếu bạn có thể hiểu mơ, bạn sẽ có khả năng hiểu suy nghĩ.
Mơ là nguyên
thuỷ hơn, do đó đơn giản hơn. Suy nghĩ là phức tạp hơn, tiến hoá hơn, do đó khó
hiểu thấu cuối cùng hơn. Và bất kì khi nào bạn muốn hiểu thấu một vật, thì tốt
hơn cả là hiểu thấu từ dạng đơn giản nhất của nó.
Nếu bạn không
ăn ngày hôm trước, trong đêm bạn sẽ có mơ về thức ăn: bạn được vua mời tiệc, bạn
ăn những thức ăn ngon. Nếu bạn thèm khát dục, bạn sẽ có mơ dục. Nếu bạn thèm
khát quyền lực hay danh vọng, bạn sẽ có mơ thay thế cho nó: rằng bạn đã trở
thành một Alexander hay một Napoleon hay một Hitler, bạn chi phối toàn thế giới.
Mơ bao giờ cũng
về cái đang thiếu trong khi bạn thức; cái mà bạn đã bỏ lỡ trong ngày, nó tới
trong mơ. Nếu bạn không bỏ lỡ điều gì trong ngày, mơ sẽ biến mất. Người hoàn
toàn bằng lòng sẽ không mơ. Đó là lí do tại sao chư phật không bao giờ mơ. Họ
không thể mơ cho dù họ muốn, bởi vì mọi thứ đều hoàn chỉnh và kết thúc, chẳng
còn lại gì treo trên tâm trí.
Mơ lơ lửng: cái
gì đó không hoàn chỉnh cứ cố để là hoàn chỉnh. Và ham muốn là để cho bạn không
bao giờ có thể hoàn chỉnh chúng. Chúng cứ lớn lên và trở thành to hơn, to hơn nữa.
Bất kì điều gì bạn làm, bao giờ cũng thiếu một cái gì đó. Ai sẽ hoàn thành lỗ hổng
đó? Mơ hoàn thành lỗ hổng đó.
Bạn nhịn ăn, lỗ
hổng đó được tạo ra trong bạn. Thật là không thoải mái mà mang lỗ hổng đó, cho
nên trong đêm, trong mơ, bạn ăn. Tâm trí đã lừa dối bạn, việc ăn này không phải
là thực. Nó không thể nào trở thành máu trong bạn được; bạn không thể lĩnh hội
mơ, bạn không thể sống trên nó. Cho nên cái gì sắp phải làm? Một điều: nó có thể
trợ giúp cho giấc ngủ ngon, nó là thứ hỗ trợ cho việc ngủ.
Nếu không có mơ
và bạn còn những ham muốn chưa hoàn chỉnh, bạn sẽ tuyệt đối không thể nào ngủ
được, nhiều lần giấc ngủ sẽ bị phá vỡ. Bạn đói, làm sao bạn có thể ngủ được?
Nhưng mơ cho bạn một giải pháp giả: rằng bạn đã ăn, ăn thức ăn ngon, bây giờ
thì đi ngủ.
Và bạn tin vào
nó, bởi vì không có cách nào để biết liệu điều này là đúng hay sai. Và bạn ngủ
say thế, vô ý thức thế, làm sao bạn có thể biết liệu nó là đúng hay sai? Bởi vì
chân lí về mọi thứ có thể được biết tới chỉ qua nhận biết, còn bạn lại không nhận
biết. Và thế rồi, hơn nữa, mơ lại đẹp, nó hoàn thành một nhu cầu sâu sắc. Cho
nên tại sao lại bận tâm về nó? Tại sao cố tìm ra liệu nó đúng hay không?
Bất kì khi nào
bạn hạnh phúc, bạn chẳng bao giờ tìm ra liệu điều này là đúng hay không. Bạn
thích nó là đúng, đấy là hoàn thành ước muốn. Và thật nguy hiểm mà cố gắng nghĩ
về nó - nó có thể chứng tỏ là không đúng, thế thì làm gì? Cho nên tốt hơn cả là
không mở mắt ra. Mơ đẹp, giấc ngủ ngon. Tại sao không nghỉ ngơi?
Trong đêm nếu bạn
cảm thấy thôi thúc phải đi ra nhà vệ sinh, ngay lập tức có mơ: bạn đang trong
nhà vệ sinh. Đây là cách mơ bảo vệ giấc ngủ, nếu không bạn sẽ phải đi ra nhà vệ
sinh. Bụng đầy nước và nó trở thành khó chịu; bạn sẽ phải đi ra nhà vệ sinh.
Nhưng mơ bảo vệ,
mơ nói, “Đây, đây là nhà vệ sinh, mình đã xả ra rồi. Bây giờ ngủ tiếp.” Bụng vẫn
còn đầy, sự không thoải mái vẫn còn đầy, nhưng mơ đem cho lớp phủ thoải mái, nó
làm cho việc dung thứ dễ hơn. Trong thực tế, tình huống vẫn còn như cũ, nhưng
mơ cho bạn ảo tưởng sai rằng thực tại đã thay đổi.
Cho nên ý nghĩa
sâu sắc của việc mơ là gì? Ý nghĩa sâu sắc là ở chỗ thực tại như vậy thì khắc
nghiệt thế, bạn không thể nào dung thứ nó được. Thực tại là như vậy, trần trụi,
là quá nhiều, bạn không sẵn sàng chịu đựng nó. Mơ lấp vào lỗ hổng này; nó cho bạn
một thực tại mà bạn có thể dung thứ được. Thực tại được tâm trí trao cho bạn
theo cách bạn có thể điều chỉnh nó.
Bạn càng trưởng
thành hơn, mơ càng ít đi, bởi vì sẽ không có vấn đề được điều chỉnh. Bạn càng
trưởng thành hơn, mơ càng ít đi. Nếu bạn trưởng thành hoàn chỉnh trong nhận biết,
mơ dừng lại bởi vì, nhận biết hoàn hảo, bạn không muốn thay đổi thực tại. Bạn
đơn giản trở thành một với nó. Bạn không tranh đấu với nó bởi vì nhận biết hoàn
hảo, bạn đi tới nhận ra rằng cái thực không thể thay đổi được. Tất cả những điều
có thể được thay đổi là thái độ của bạn, tâm trí bạn - cái thực sẽ vẫn còn như
cũ.
Bạn không thể
thay đổi thực tại, bạn chỉ có thể thay đổi tiến trình sai của tâm trí. Thông
thường chúng ta đang cố gắng thay đổi thực tại để cho thực tại điều chỉnh theo
chúng ta. Người tôn giáo là người đã vứt bỏ nỗ lực ngu xuẩn đó. Bây giờ người ấy
không cố gắng thay đổi thực tại cho khớp với mình nữa bởi vì điều đó là vô
nghĩa. Cái toàn thể không thể khớp với cái bộ phận, và cái toàn thể không thể
tuân theo cái bộ phận theo bất kì cách nào; cái bộ phận phải tuân theo cái toàn
thể.
Tay tôi phải
tuân theo thân thể hữu cơ của tôi, toàn bộ thân thể tôi; thân thể tôi không thể
tuân theo cái tay, điều đó là không thể được. Bộ phận là vụn vặt, nguyên tử. Bạn
là ai trước thực tại bao la này? Bạn định điều chỉnh thực tại này thế nào theo
bạn?
Đây là bản ngã,
cái nói, “Cứ cố gắng vào - ngày này hay ngày khác thực tại sẽ phải điều chỉnh
theo ta.” Thế thì bạn trở nên bị nặng gánh với lo âu, bởi vì điều này không chắc
xảy ra. Điều này không thể nào xảy ra được trong chính bản chất của mọi sự vật:
một giọt nước cố gắng thay đổi đại dương, một giọt nước cố gắng ảnh hưởng tới đại
dương theo ý tưởng của mình!
Tâm trí của bạn
là gì? Thậm chí không bằng lấy một giọt trong đại dương bao la này! Và bạn đang
cố gắng cái gì? - bạn đang cố gắng làm cho thực tại tuân theo bạn. Chân lí phải
trở thành cái bóng của bạn. Đây là ngu xuẩn của mọi phàm nhân, tất cả những ai
nghĩ mình là người duy vật.
Thế thì người
tôn giáo là gì, tâm trí tôn giáo là gì? Người tôn giáo là người đi tới hiểu ra
rằng điều này hoàn toàn không thể được, bạn đang đụng phải bức tường không thể
được. Cánh cửa không thể có ở đó được - bạn sẽ chỉ bị thương, bạn sẽ chỉ phiền
não, bạn sẽ chỉ cảm thấy thất vọng, bạn sẽ chỉ trở nên thất bại. Chẳng cái gì
khác là có thể cả. Điều đó xảy ra cho mọi bản ngã ở chỗ chung cuộc. Bản ngã đau
khổ, bản ngã bao giờ cũng bị đóng đinh - bị đóng đinh bởi vì cái ngu xuẩn của
riêng nó.
Khi hiểu biết bừng
lên, khi bạn có thể nhìn và thấy sự kiện rằng bạn chỉ là một bộ phận, một phần
nhỏ bé vô hạn của vũ trụ bao la vô hạn, bạn đơn giản không cố gắng ngu xuẩn nữa.
Bạn chấm dứt việc làm ngu xuẩn xung quanh. Hơn nữa, ngược lại, bạn bắt đầu cuộc
hành trình mới: bạn cố gắng điều chỉnh bản thân mình theo thực tại. Khi bạn bắt
đầu cố gắng điều chỉnh bản thân mình theo thực tại, việc mơ dừng lại dần dần -
bởi vì điều này là có thể được, đây là khả năng duy nhất có thể xảy ra, và nó xảy
ra. Khi nó xảy ra, việc mơ dừng lại.
Khi bạn cố gắng
thay đổi thực tại theo bạn, bạn sẽ trở thành nhà tư tưởng, bởi vì bạn sẽ phải
phát minh ra các phương tiện và cách thức, mưu mẹo, để buộc thực tại điều chỉnh
theo bạn. Bạn có thể trở thành nhà khoa học lớn, bạn có thể trở thành nhà toán
học lớn, triết gia lớn, nhưng bạn sẽ trong lo âu và phiền não.
Bạn sẽ không trở
thành một Meera nhẩy múa hay vị Phật im lặng hay một Tăng Xán cực lạc, không, bởi
vì toàn bộ cách tiếp cận của họ là đối lập hẳn lại. Họ điều chỉnh theo vũ trụ,
họ trở thành một với nó, họ tuôn chảy với nó, họ trở thành chỉ là cái bóng
trong nó. Họ không tranh đấu, họ không có bất kì xung đột hay biện luận nào với
sự tồn tại. Họ đơn giản nói có với tất cả những cái đang hiện hữu. Họ không phải
là người nói-không, họ là người nói-có.
Đó là ý nghĩa của
việc mang tính tôn giáo: là người nói-có. Vấn đề không phải là liệu bạn có tin
vào Thượng đế hay không. Phật chưa bao giờ tin vào bất kì Thượng đế nào, nhưng
ông ấy là người tôn giáo bởi vì ông ấy là người nói-có. Bạn nói có với ai,
không thành vấn đề: bạn nói có - điều đó làm thay đổi toàn bộ vấn đề.
Dù bạn nói điều
đó với một thượng đế có bốn đầu hay bốn trăm đầu, có hai tay hay một nghìn tay,
dù bạn nói điều đó với thượng đế của người Hindu, người Ki tô giáo hay người Mô
ha mét giáo, dù bạn nói điều đó với tự nhiên hay với định mệnh, số mệnh, cũng
chẳng khác biệt gì. Bạn nêu điều đó với ai, đấy không phải là vấn đề. Nếu bạn
nói có, cái có toàn bộ về phần bạn, bạn trở thành mang tính tôn giáo.
Nếu bạn nói
không, điều đó có nghĩa là bạn sẽ tiếp tục vật lộn. Bạn sẽ tranh đấu với dòng
chảy, bạn sẽ đi ngược dòng. Bạn nghĩ rằng bạn khôn ngoan hơn Đạo, bạn nghĩ bạn
lớn lao hơn sự tồn tại. Thế thì tất nhiên, một cách tự nhiên, hiển nhiên, bạn sẽ
thất vọng bởi vì đấy không phải là cảnh ngộ.
Khoảnh khắc bạn
nói có, cuộc sống của bạn bắt đầu nở hoa theo chiều hướng mới. Chiều hướng của
cái có là chiều hướng của tôn giáo. Chiều hướng của cái không là chiều hướng của
chính trị, khoa học và mọi thứ khác.
Nhà huyền môn
là người tuôn chảy với dòng sông, người ấy không thúc đẩy nó. Người ấy thậm chí
còn không bơi trong nó, bởi vì bơi cũng là tranh đấu - người ấy đơn giản nổi.
Người ấy không có mục tiêu để đạt tới, bởi vì làm sao bạn có thể xác định được
mục tiêu? Bạn là ai? Làm sao bạn có thể ấn định mục tiêu?
Khi bạn buông bỏ
trong dòng sông, dòng sông di chuyển; bạn di chuyển theo nó. Mục tiêu của dòng
sông là mục tiêu của bạn. Bạn thậm chí không bận tâm nó ở đâu nữa - bất kì nó ở
đâu. Bạn đã biết được một bí mật lớn về việc nói có. Trong thực tế, bây giờ dù
bạn ở bất kì đâu, bạn cũng đều ở mục tiêu, bởi vì có là mục tiêu. Bạn đạt tới
đâu không thành vấn đề; dù bạn ở đâu, bạn nói có và đó là mục tiêu.
Và nếu bạn nghiện
với cái không, thì dù bạn ở bất kì đâu, nó cũng sẽ là cuộc hành trình, nó sẽ không
bao giờ là mục tiêu cả. Dù bạn đạt tới đâu, cái không của bạn sẽ đạt tới bạn.
Cho dù bạn có lên thiên đường, cái không sẽ đạt tới bạn. Bạn sẽ bỏ nó ở đâu?
Nếu bạn gặp lực
tối thượng như bạn hiện hữu ngay lúc này, bạn sẽ nói không, bởi vì bạn được huấn
luyện trong nó. Bỗng nhiên, làm sao bạn có thể nói có được? Thậm chí nếu bạn bắt
gặp Thượng đế thì bạn sẽ nói không. Bạn sẽ tìm thấy nhiều lầm lỗi, bởi vì với
tâm trí nói-không, chẳng cái gì hoàn hảo cả - không cái gì có thể hoàn hảo được.
Còn với tâm trí nói-có thì không cái gì là không hoàn hảo cả. Thậm chí cái
không hoàn hảo cũng có sự hoàn hảo riêng của nó đối với tâm trí nói-có.
Điều đó có vẻ
mâu thuẫn: người ấy sẽ nói, “Cái không hoàn hảo đẹp làm sao! Cái không hoàn hảo
mới hoàn hảo làm sao!” Thậm chí trong hỗn loạn vẫn có hài hoà cho người đó. Và
thậm chí trong vật chất, người nói có cũng thấm nhuần sâu sắc và tìm thấy điều
thiêng liêng. Thế thì mọi tảng đá đều tràn đầy điều thiêng liêng, nó ở mọi nơi.
Người có thể
nói có sẽ thấy mình ở mọi nơi; và người chỉ có thể nói không sẽ không thấy mình
ở đâu cả. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn, điều đó không tuỳ thuộc vào ngài.
Một hiểu biết
đem lại biến đổi là: đừng tranh đấu với cái toàn thể. Toàn bộ nỗ lực đó là ngớ
ngẩn. Và cái toàn thể sẽ không đau khổ vì điều đó, bởi vì cái toàn thể không
tranh đấu với bạn. Cho dù đối với bạn dường như là cái toàn thể đang đánh lại bạn
và cố gắng nghiền nát bạn và thắng, thì bạn vẫn sai. Nếu bạn tranh đấu chống lại
nó, tranh đấu của bạn được phản xạ. Cái toàn thể không tranh đấu với bạn, nó thậm
chí không nghĩ về bạn tranh đấu. Chính là tâm trí riêng của bạn được phản xạ,
và cái toàn thể vang vọng. Bất kì cái gì bạn làm cũng đều bị phản xạ, nó là tấm
gương.
Nếu bạn đi vào
với tâm trạng tranh đấu, bạn sẽ thấy rằng cái toàn thể quanh bạn đang cố gắng
nghiền nát bạn. Thử bơi ngược dòng mà xem: toàn bộ dòng sông dường như buộc bạn
trôi xuôi, dường như toàn bộ dòng sông tồn tại đó chỉ để làm cho bạn thất bại.
Nhưng dòng sông có đó có phải chỉ để làm bạn thất bại không? Dòng sông có thể
không biết gì về bạn cả. Và khi bạn đã không có đó, thế nữa nó đã chảy theo
cùng cách. Và khi bạn sẽ không có đó, nó vẫn tiếp tục chảy theo cùng cách. Nó
không chảy theo cách đó bởi vì bạn. Và nếu bạn cảm thấy nó chống lại bạn, thì đấy
là vì bạn - bạn đang cố gắng đi ngược dòng.
Có lần chuyện xảy
ra:
Vợ của Mulla
Nasruddin ngã xuống sông đang lúc lụt. Hàng xóm chạy tới anh ta và họ nói, “Vợ
anh bị ngã xuống sông, và sông thì đang lụt và chảy nhanh lắm. Lại mau!”
Nasruddin chạy
ra sông, nhẩy xuống sông - bắt đầu bơi ngược dòng. Mọi người vây xung quanh, đứng
đó và quan sát, họ nói, “Anh làm gì vậy, Nasruddin?”
Nasruddin nói,
“Tôi biết vợ tôi rõ lắm - cô ấy bao giờ cũng cố gắng đi ngược dòng. Cô ấy không
thể đi xuôi dòng được, điều đó là không thể được. Các anh có thể biết dòng
sông, còn tôi thì biết vợ mình. Cho nên đừng có cố gắng...”
Có những người
bao giờ cũng đi ngược dòng, họ có ở mọi nơi. Và bởi vì nỗ lực riêng của họ mà họ
cảm thấy dòng sông đang nghiền nát mình, họ tranh đấu, cố gắng làm dòng sông thất
bại và giành thắng lợi.
Cái toàn thể
không chống lại bạn, không thể thế được - cái toàn thể là mẹ bạn. Bạn tới từ
cái toàn thể, bạn sẽ tan biến vào trong cái toàn thể. Làm sao cái toàn thể có
thể chống lại bạn được? Nó đơn giản yêu bạn. Dù bạn có đi ngược dòng hay xuôi
dòng, cũng chẳng có gì khác biệt với cái toàn thể - nhưng chỉ bởi vì yêu thương
mà cái toàn thể không thể trôi ngược dòng.
Và nhớ lấy, nếu
nó trôi ngược dòng, bạn sẽ bắt đầu chống lại nó - bởi vì đấy không phải là vấn
đề. Tâm trí nói-không của bạn mới là vấn đề, bởi vì bản ngã thu thập sức mạnh
qua cái không. Bạn càng nói không nhiều, bản ngã càng cảm thấy mạnh hơn; bạn
càng nói có nhiều, bản ngã càng bị vứt bỏ đi. Đó là lí do tại sao rất khó nói
có với mọi điều, thậm chí những điều thông thường.
Đứa trẻ muốn
chơi ngoài đường và nói hỏi bố nó, “Con ra chơi bên ngoài được chứ?” “Không!” Vấn
đề gì về điều đó đây? Tại sao cái không lại tới dễ dàng thế? Tại sao cái có lại
khó thế? - bởi vì khi bạn tranh đấu, bạn cảm thấy mình hiện hữu. Nếu không thì
mọi thứ đều vừa vặn tuyệt vời thế, bạn không thể cảm thấy mình hiện hữu.
Nếu bạn nói có,
bạn không có đó. Khi cái có thực sự được nói ra, bạn vắng bóng. Làm sao bạn có
thể cảm thấy được? Bạn có thể cảm thấy chỉ cái chống lại, và thế thì bạn cảm thấy
mạnh mẽ. Cái không cho bạn sức mạnh. Và làm sao cái không có thể cho bạn sức mạnh
được? Bởi vì, nói không, bạn bị cắt rời khỏi cội nguồn của tất cả mọi sức mạnh.
Nó là một cảm giác sai lầm, nó là bệnh tật, nó là ốm yếu. Nói có, và biến đổi bắt
đầu xảy ra.
Thông thường bạn
nói không chỉ trừ phi bạn phải nói có. Bất kì khi nào bạn nói có, bạn không cảm
thấy thích lắm - cứ như là bị thất bại, cứ như là bất lực. Bất kì khi nào bạn
nói không, bạn cảm thấy thích: bạn thắng lợi, bạn đã đặt ai đó vào chỗ của
mình, bạn đã nói không, bạn mạnh mẽ hơn. Cái không là bạo hành, cái không là
hùng hổ. Cái có mang tính cầu nguyện, cái có là lời cầu nguyện.
Không cần đi tới
nhà thờ và chùa chiền và đền đài đâu - cuộc sống là ngôi đền đủ lớn rồi. Bạn
đơn giản bắt đầu nói có, và ở mọi nơi bạn sẽ cảm thấy lời cầu nguyện bởi vì ở mọi
nơi bản ngã sẽ vắng bóng. Và khi bản ngã không có đó, cái toàn thể bỗng nhiên
tuôn chảy trong bạn. Bạn không bị đóng kín, bạn cởi mở. Thế thì làn gió mới từ
cái toàn thể tràn tới, đợt năng lượng mới đi vào bạn. Thế thì bạn được đổi mới
từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia.
Cho nên điều đầu
tiên: tâm trí thay thế bằng việc nghĩ và việc mơ, nhưng nó không bao giờ có thể
trở thành cái thực được. Nó vẫn còn là bắt chước. Nó có thể có vẻ như cái thực
nhưng lại không phải - nó không thể thế được. Làm sao một biểu tượng, một biểu
tượng ngôn ngữ lại có thể là thực được?
Bạn đói và tôi
cứ nói mãi về bánh mì. Bạn khát và tôi cứ nói mãi về nước - không chỉ nói, mà
tôi còn cho bạn công thức khoa học nhất về nó. Hay tôi cho bạn định nghĩa rõ
ràng, hay tôi bảo bạn, “Đừng lo nghĩ, nước có nghĩa là H2O. Bạn chỉ cần lặp lại
H2O, H2O... làm nó thành mật chú, thiền siêu việt, TM: H2O, H2O, H2O, và mọi thứ
sẽ xảy ra cho bạn; cơn khát sẽ qua đi bởi vì công thức này.”
H2O có thể là
công thức, nhưng cơn khát của bạn sẽ không lắng nghe nó. Đây là điều đang xảy
ra trên khắp thế giới này. Cứ lẩm nhẩm mật chú aum, aum, aum: aum cũng là công
thức, giống hệt H2O. Bởi vì người Hindu đã phát minh ra ba âm đó - A, U, M -
chúng là âm thanh gốc rễ, cho nên aum hàm chứa tất cả các âm thanh có thể. Vậy
cần gì đến các mật chú khác? Bạn đơn giản lặp lại aum, aum, và toàn bộ phạm vi
âm thanh được lặp lại, cái gốc. Cho nên nếu bạn có gốc rễ, thì cứ lẩm nhẩm nó,
chẳng mấy chốc hoa sẽ theo sau.
Cả H2O lẫn aum
lẫn bất kì cái gì giống thế đều sẽ chẳng có ích nhiều, bởi vì ai sẽ lặp lại nó?
- tâm trí sẽ lặp lại nó. Và thực tại có đó bao quanh bạn; không cần phải lặp lại
về nó, thậm chí không cần phải nghĩ về nó. Bạn chỉ nhìn, bạn chỉ mở mắt mình ra
và thấy; nó ở mọi nơi! Cách bạn bỏ lỡ nó mới là phép màu. Khi bạn đạt tới nó,
nó không là phép màu.
Nhớ lấy, tôi
chưa bao giờ nói rằng Phật là phép màu hay Tăng Xán là phép màu - bạn mới là
phép màu đấy! Bởi vì bất kì cái gì họ đã đạt tới đều là những điều đơn giản đến
thế mà mọi người đáng đều phải đạt tới được. Bí ẩn gì có đó để mà nói? Vị Phật
đã thấy thực tại, và thực tại ở ngay trước bạn. Tại sao gọi là đạt tới một hiện
tượng lớn như thế, một sự kiện lớn như thế? Chẳng có gì cả! Nó là đơn giản!
Thực tại đang
ngay trước bạn cũng như trước vị Phật hay trước con trâu. Phép màu là bạn - làm
sao bạn bỏ lỡ nó, và làm sao bạn cứ bỏ lỡ nó hoài. Thực sự, bạn phải đã phát
minh ra kĩ thuật mà, và hoàn hảo đến mức mà, trong nhiều kiếp sống bạn cứ làm lỡ
hoài. Và thực tại không thể làm gì được, nó chỉ ở ngay trước bạn và bạn cứ làm
lỡ mãi. Thủ thuật là gì? Làm sao bạn đạt tới nó? Làm sao bạn làm ảo thuật này?
Ảo thuật là ‘về’.
Lời ‘về’ này chính là ảo thuật. Hoa có đó, bạn bắt đầu nghĩ về hoa - hoa không
còn đó nữa, tâm trí bị phân tán bởi lời. Thế thì phim tới quanh bạn, giữa bạn
và hoa. Thế thì mọi thứ thành tối tăm và lộn xộn, thế thì lời trở thành quan trọng
hơn cái thực, thế thì biểu tượng trở thành quan trọng hơn cái được biểu tượng
hoá.
Allah là gì? -
một lời. Brahman là gì? - một lời. Thượng đế là gì? - một lời. Và người Hindu
và người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo cứ tranh đấu về lời, mà chẳng ai bận
tâm rằng tất cả ba lời này đều biểu tượng hoá cho cùng một đối thể. Biểu tượng
trở thành quan trọng hơn.
Nếu bạn nói điều
gì đó chống lại Allah, thế thì người Mô ha mét giáo lập tức sẽ sẵn sàng đánh
nhau và giết chết bạn hay bị giết chết. Nhưng người Hindu sẽ cứ cười bởi vì điều
được nói chống lại Allah, điều đó là tốt. Nhưng nói cùng điều đó mà chống lại
Brahman, thế thì người đó sẽ tuốt gươm ra, bây giờ điều đó không thể nào tha thứ
được. Ngu xuẩn làm sao! Bởi vì Allah, hay Brahman, hay Thượng đế - có ba nghìn
ngôn ngữ, cho nên có ba nghìn từ nói về Thượng đế.
Cái được biểu
tượng hoá kém quan trọng hơn cái biểu tượng. Bông hồng không quan trọng, từ
‘bông hồng’ mới quan trọng.
Và con người đã
trở thành nghiện lời thế, say sưa với lời thế, đến mức lời có thể tạo ra phản ứng.
Ai đó nói ‘chanh’, và mồm bạn đầy nước dãi. Đây là việc nghiện lời. Thậm chí
chanh có thể cũng không hiệu quả được đến thế: quả chanh có thể nằm đó trên bàn
và mồm bạn có thể không có nước dãi. Nhưng ai đó nói ‘chanh’, và mồm bắt đầu đầy
nước dãi. Lời đã trở thành quan trọng hơn cái thực - đây là mẹo - và chừng nào
mà bạn chưa vứt bỏ việc nghiện lời này thì bạn sẽ chẳng bao giờ có thể gặp gỡ
được thực tại. Không có rào chắn khác.
Hoàn toàn không
có ngôn ngữ đi và bỗng nhiên nó có đó - nó bao giờ cũng có đó rồi. Bỗng nhiên mắt
bạn trong trẻo; bạn đạt tới sáng tỏ và mọi thứ trở nên chói sáng. Toàn bộ nỗ lực
của tất cả các cách thiền chỉ là để làm sao vứt bỏ ngôn ngữ đi. Vứt bỏ xã hội
chẳng ích gì, bởi vì về cơ bản xã hội không là gì ngoài ngôn ngữ.
Đó là lí do tại
sao xã hội loài vật không tồn tại, bởi vì không có ngôn ngữ. Nghĩ mà xem: nếu bạn
không thể nói được, nếu bạn không có ngôn ngữ, làm sao xã hội tồn tại được?
Không thể được! Ai sẽ là vợ bạn? Ai sẽ là chồng bạn? Ai sẽ là mẹ bạn và ai sẽ
là bố bạn?
Không biên giới
nào là có thể có nếu thiếu ngôn ngữ. Đó là lí do tại sao với con vật thì xã hội
không tồn tại. Và nếu xã hội tồn tại, chẳng hạn với loài kiến và ong, thế thì bạn
có thể nghi ngờ rằng ngôn ngữ phải có đó. Và bây giờ các nhà khoa học đã làm rõ
về điều đó rằng ong có ngôn ngữ - một ngôn ngữ rất nhỏ chừng bốn từ, nhưng
chúng có ngôn ngữ. Kiến phải có ngôn ngữ bởi vì xã hội của chúng cũng tổ chức
thế, nó không thể tồn tại mà không có ngôn ngữ được.
Xã hội tồn tại
bởi vì ngôn ngữ. Khoảnh khắc bạn vứt bỏ ngôn ngữ đi, xã hội biến mất. Không cần
phải đi lên Himalaya, bởi vì nếu bạn mang ngôn ngữ của mình thì bạn có thể một
mình bên ngoài, nhưng bên trong xã hội sẽ vẫn có đó. Bạn sẽ nói với bạn bè, làm
tình với vợ mình hay vợ người khác, mua, bán. Bạn sẽ tiếp tục bất kì cái gì bạn
đang làm ở đây.
Chỉ có một
Himalaya, và đó là trạng thái của tâm thức bên trong nơi ngôn ngữ không tồn tại.
Và đây là điều có thể - bởi vì ngôn ngữ là việc huấn luyện, nó không phải là bản
tính của bạn. Bạn được sinh ra không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã được trao cho bạn,
bạn đã không mang nó do bản chất của mình. Nó là không tự nhiên, nó là sản phẩm
phụ của xã hội.
Hạnh phúc đi, bởi
vì có khả năng thoát ra khỏi ngôn ngữ. Nếu bạn đã mang nó từ chính lúc sinh ra,
thế thì sẽ không có cách nào để thoát ra khỏi nó. Nhưng thế thì sẽ không có nhu
cầu, bởi vì thế thì nó sẽ là một phần của Đạo. Nó không phải là một phần của Đạo,
nó do con người tạo ra. Nó là thứ tiện dụng, nó có mục đích; xã hội không thể
nào tồn tại mà không có ngôn ngữ.
Cá nhân không
nhất thiết là một phần của xã hội trong cả hai mươi bốn giờ một ngày. Thậm chí
trong vài phút, nếu bạn trở thành không là phần nào của xã hội, bỗng nhiên bạn
hội nhập với cái toàn thể và trở thành một phần của Đạo. Và bạn nên mềm dẻo.
Khi bạn cần đi vào trong xã hội, bạn nên dùng ngôn ngữ; khi bạn không cần đi
vào trong xã hội, bạn nên vứt bỏ ngôn ngữ. Ngôn ngữ nên được dùng như một chức
năng, như một cái máy. Bạn không nên bị ám ảnh bởi nó, đó là toàn bộ vấn đề.
Ngay cả Tăng
Xán cũng dùng ngôn ngữ. Tôi đang dùng ngôn ngữ bởi vì tôi muốn truyền đạt điều
gì đó tới bạn. Nhưng khi bạn không có đó, thế thì đơn giản là tôi không trong
ngôn ngữ. Khi tôi phải nói thì tôi dùng ngôn ngữ; khi bạn không có đó, tôi
không có ngôn ngữ, thế thì bên trong không lời nào chuyển động cả. Khi tôi trao
đổi, tôi trở thành một phần của xã hội. Khi tôi không trao đổi, tôi trở thành một
phần của Đạo, một phần của vũ trụ, một phần của tự nhiên, của Thượng đế - bất
kì cái tên nào bạn muốn cho nó, bạn đều có thể cho.
Với Thượng đế,
im lặng là trao đổi; với con người, ngôn ngữ là trao đổi. Nếu bạn muốn trao đổi
với Thượng đế, im lặng đi; nếu bạn muốn trao đổi với con người, thì nói, đừng
im lặng.
Nếu bạn ngồi với
người bạn nào đó một cách im lặng, bạn sẽ cảm thấy lúng túng, vụng về và người
bạn này cũng sẽ cảm thấy lúng túng. Người ấy sẽ nghĩ điều gì đó đã đi sai, người
ấy sẽ hỏi, “Có vấn đề gì vậy? Sao anh không nói? Anh có buồn hay có điều gì đó,
chán nản hay cái gì đó không? Có điều gì sai chăng?” Nếu chồng ngồi im lặng, vợ
bỗng nhiên bắt đầu gây chuyện: “Sao anh im lặng? Sao anh không nói với em?” Nếu
vợ bỗng nhiên im lặng, có rắc rối.
Tại sao lại có
nhu cầu này để nói với ai đó? Bởi vì nếu bạn không nói, điều đó có nghĩa là bạn
một mình, bạn không chấp nhận rằng ai đó đang đấy. Khi bạn không nói, người kia
không thể tồn tại vì bạn, bạn một mình. Người kia trở nên nhận biết rằng bạn dửng
dưng với người đó. Cho nên mọi người cứ nói. Khi họ không muốn nói, chẳng cái
gì để trao đổi, chẳng cái gì để nói, họ nói về thời tiết, về điều gì đó, bất kì
cái gì cũng được, nhưng nói, bởi vì không nói thì người kia có thể cảm thấy bị
tổn thương. Và điều này là bất lịch sự, phải im lặng với ai đó. Nhưng với Thượng
đế, điều đối lập mới là hoàn cảnh: với tự nhiên, nếu bạn nói, bạn sẽ lỡ.
Việc nói với tự
nhiên có nghĩa là bạn dửng dưng với thực tại đang ở ngay trước bạn. Chỉ im lặng
là cần ở đó. Bạn mang im lặng vào trong thế giới khi bạn được sinh ra. Ngôn ngữ
được trao cho bạn; nó là món quà, sự huấn luyện của xã hội. Nó hữu dụng, nó là
một phương tiện, một kĩ xảo; nhưng bạn đem cái im lặng vào trong thế giới với bạn.
Đạt tới cái im lặng đó lần nữa đi, có thế thôi - lần nữa lại là đứa trẻ. Toàn bộ
vấn đề tới từ điều này, bạn có thể kết luận về nó; tất cả chư phật đều tới từ kết
luận này: rằng bạn phải trở thành một phần của tự nhiên lần nữa.
Điều đó không
nhất thiết có nghĩa là chống lại xã hội; điều đó chỉ có nghĩa là vượt ra ngoài
xã hội, không chống lại xã hội. Khi bạn được sinh ra... khoảnh khắc đầu tiên của
việc sinh thành của bạn phải trở thành khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống của
bạn. Cái chết của bạn phải giống như việc sinh ra lần nữa, bạn phải là đứa trẻ
lần nữa, được tái sinh.
Jesus nói, “Chừng
nào ông còn chưa được tái sinh ông không thể nào vào vương quốc của Thượng đế của
ta. Giống như trẻ nhỏ.” Ông ấy ngụ ý gì? - ông ấy ngụ ý chỉ tự nhiên. Tất cả những
điều mà xã hội trao cho bạn đều tốt, nhưng đừng bị giới hạn trong nó, nếu không
nó sẽ trở thành tù túng. Là cái vô hạn đi. Xã hội không thể là vô hạn được; nó
phải là đường hầm chật hẹp, nó phải như thế, bởi bản chất của nó.
Và điều thứ hai
cần phải nhớ trước khi chúng ta đi vào lời kinh này: nếu bạn im lặng, thế thì bạn
không hiện hữu, bởi vì chỉ rối loạn mới có thể được cảm thấy. Bạn đã bao giờ cảm
thấy cái im lặng chưa? Ai sẽ cảm thấy nó? - bởi vì nếu bạn cảm thấy, thế thì
chút ít rối loạn đang có đó.
Chuyện đã xảy ra:
Một trong các đệ
tử của Bồ đề đạt ma tới ông ấy, và Bồ đề đạt ma đã bảo người ấy, “Trở nên hoàn
toàn trống rỗng và im lặng đi, chỉ thế rồi tới ta.”
Đệ tử này làm
việc nhiều năm: thế rồi người ấy trở nên trống rỗng, im lặng. Thế rồi người ấy
tới Bồ đề đạt ma và nói, “Bây giờ, thưa thầy, con đã tới, và thầy đã bảo con,
‘Im lặng và trống rỗng.’ Bây giờ con đã trở thành im lặng và trống rỗng.”
Bồ đề đạt ma
nói với người ấy, “Đi đi và vứt cái trống rỗng và im lặng đó đi nữa.”
Bởi vì nếu bạn
có thể cảm thấy nó, thế thì nó không phải là toàn bộ, phân chia vẫn tồn tại.
Người cảm thấy vẫn còn chưa im lặng. Im lặng có thể đang ở giữa chừng, bao
quanh, nhưng người cảm vẫn không im lặng, nếu không thì ai sẽ cảm thấy?
Khi bạn thực sự
im lặng, bạn thậm chí không im lặng, bởi vì im lặng chỉ là cái đối lập của ồn
ào. Khi không có ồn ào, làm sao im lặng có thể có đó được? Khi ồn ào biến mất,
cái đối lập cũng biến mất. Thế thì bạn thậm chí không thể nào nói được, “Tôi
đang im lặng.” Nói, và bạn lỡ. Đó là lí do tại sao Upanishad nói: Người nói,
‘ta đã biết,’ là không biết. Socrates nói rằng khi người ta trở nên trí huệ,
người ấy chỉ biết cái dốt nát mà không cái gì khác.
Khi bạn trở nên
im lặng, bạn không biết cái gì là cái gì. Mọi thứ đều trộn lẫn vào mọi thứ
khác, bởi vì bạn không có đó. Bạn chỉ là một phần của ồn ào; cái tôi là thứ ồn
ào nhất trên thế giới này. Không máy bay phản lực nào có thể tạo ra nhiều tiếng
ồn như cái tôi tạo ra! Nó là kẻ quấy rối lớn nhất trên thế giới này, và mọi thứ
khác chỉ là sản phẩm phụ của nó. Cái tôi tạo ra hiện tượng ồn ào nhất.
Khi bạn im lặng
bạn không hiện hữu. Ai sẽ cảm thấy? Khi bạn trống rỗng, bạn không thể cảm thấy
‘tôi là trống rỗng”; bằng không bạn vẫn còn có đó để cảm và ngôi nhà vẫn còn đầy,
nó không trống rỗng. Khi bạn thực trống rỗng, bạn trống rỗng bản thân mình. Khi
tiếng ồn dừng lại, bạn cũng dừng lại. Thế thì thực tại ở ngay trước bạn, nó là
tất cả xung quanh. Nó là bên trong, bên ngoài, nó là mọi nơi, bởi vì chỉ thực tại
mới có thể hiện hữu.
Với tôi, mọi mơ
biến mất, bởi vì với tôi tất cả ham muốn biến mất. Nếu không có ham muốn, làm
sao có thể có ham muốn không đầy đủ mà cần phải được hoàn thành bởi mơ? Chỉ cái
trống rỗng mới có thể hoàn hảo. Đây là nghĩa của Tăng Xán.
Bây giờ cố đi
vào lời kinh này:
Trống rỗng ở
đây, trống rỗng ở kia, nhưng vũ trụ vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt ông...
Lớn vô hạn và
nhỏ vô hạn; không khác biệt, vì các định nghĩa đã tan biến và không biên giới
nào thấy được.
Cho nên điều đó
cũng đúng với hiện hữu và không hiện hữu.
Đừng phí thời
gian trong hoài nghi và biện luận mà chẳng liên quan gì với điều này.
“Trống rỗng ở
đây” có nghĩa là trống rỗng bên trong; “trống rỗng ở kia” có nghĩa là trống rỗng
bên ngoài. Và có thể có hai trống rỗng không? Điều đó là không thể được. Hai trống
rỗng là không thể có, bởi vì làm sao bạn phân ranh giới giữa cái nọ và cái kia
được? Hai trống rỗng bởi chính bản chất của chúng sẽ trở thành một. Bên trong
và bên ngoài là phân chia của tâm trí; khi tâm trí biến mất, phân chia này biến
mất.
Trống rỗng ở
đây, trống rỗng ở kia... Thực sự, nói ở đây và ở kia cũng không tốt, không hoàn
toàn đúng. Nhưng đó là vấn đề; trong lời nói chẳng cái gì có thể nêu chính xác
đúng được, chúng bóp méo đi. Tăng Xán biết, bởi vì bây giờ không thể nào có ở
đây và ở kia được. Chúng là những đường phân ranh cũ. Bên trong và bên ngoài đều
là những ranh giới cũ, bây giờ và khi đó là những ranh giới cũ, và không ngôn
ngữ thì chúng biến mất.
Chuyện đã xảy
ra:
Một người tới
Bokuju và nói với ông ấy, “Tôi đang vội và tôi sẽ không thể ở lại lâu với ông. Chỉ
đi qua đường này, tôi nghĩ cũng tốt để tới và nghe dù chỉ một lời. Tôi không cần
nhiều. Thầy nói một lời để chỉ ra chân lí và tôi sẽ mang nó trong tim mình.”
Bokuju nói, “Đừng
bắt buộc ta, bởi vì thậm chí một lời cũng đủ cho chân lí biến mất. Và dù ông có
vội hay không, tôi cũng không thể nào nói được gì cả. Nhớ điều này: rằng ông đã
hỏi Bokuju và ông ta nói, ‘Tôi không thể nói được điều gì.’ Chỉ cần nhớ điều
này.”
Người này nói,
“Điều này cũng chẳng nhiều nhặn gì mấy và cũng chẳng giúp gì cho tôi cả. Thầy
nói chút xíu, chỉ một lời thôi - tôi không hỏi nhiều.”
Bokuju nói, “Thậm
chí đến một lời cũng đủ để phá huỷ cái toàn thể. Ông nhìn vào tôi và nhớ tôi
bên trong ông.”
Nhưng người này
không thể nào nhìn được bởi vì điều đó khó khăn - bạn không biết cách nhìn - nếu
không thì đã không có nhu cầu để tới Bokuju.
Bạn không thể
nhìn ra phía trước. Chỏm mũi bạn là cái khó nhìn vào nhất. Nhìn sang bên thì được;
bạn sang trái và bạn sang phải, nhưng chẳng bao giờ ở giữa cả. Cho nên có người
điên cực hữu và người điên cực tả, nhưng bạn không thể nào tìm ra được người giữa,
người không điên. Đi sang bất kì cực đoan nào và bạn cũng phát điên, vẫn còn ở
giữa và bạn trở nên được chứng ngộ - nhưng không ai còn ở giữa. Tại chỗ giữa bạn
gặp thực tại.
Lời nhất định
nói được một nửa thôi, một lời không thể nói đầy đủ sự việc. Nếu bạn nói, “Có
Thượng đế ,” thế thì bạn phủ nhận, “Không có Thượng đế” - và ngài là cả hai. Nếu
bạn nói, “Có sống,” bạn phủ nhận chết - mà sống là chết nữa. Nếu bạn nói điều
gì đó, nó sẽ chỉ được một nửa, và một nửa chân lí còn nguy hiểm hơn là nói dối
toàn bộ. Bởi vì tính một nửa đó mà nó mang hương thơm của chân lí và bạn có thể
bị nó lừa dối.
Tất cả các giáo
phái đều dựa trên chân lí một nửa; đó là lí do tại sao chúng nguy hiểm. Tất cả
các giáo đoàn đều nguy hiểm bởi vì chúng dựa trên chân lí một nửa. Và ngoài ra
thì không thể có được, bởi vì giáo đoàn, tín ngưỡng, giáo phái cần phải dựa
trên lời. Phật giáo không dựa vào Phật, nó dựa vào điều Phật đã nói. Và điều Phật
đã nói là một nửa, bởi vì cái toàn thể không thể nào được nói ra. Không cái gì
có thể được làm về nó cả.
Hoặc bạn cố gắng
nói cái toàn thể, thế thì chẳng điều gì được nói ra cả. Nếu bạn nói, “Sống là cả
sống và chết,” bạn đang nói gì vậy? Nếu bạn nói, “Thượng đế là cả hai Quỉ và
Thượng đế,” bạn đang nói gì vậy? Bạn đang nói điều ngược đời, bạn không nói rõ
ràng, và mọi người sẽ nghĩ bạn điên. Làm sao Thượng đế có thể là cả tốt và xấu
được? Và làm sao sống lại có thể là cả chết và sống được? Chết phải đối lập với
sống chứ.
Trống rỗng ở
đây, trống rỗng ở kia, nhưng vũ trụ vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt ông...
Lớn vô hạn và
nhỏ vô hạn; không khác biệt...
Bởi vì nếu cái
gì đó là lớn vô hạn và cái gì đó là nhỏ vô hạn, không thể có bất kì sự khác biệt
gì do vấn đề về cái vô hạn. Nếu bạn đi xuống, phân chia, phân tích, bạn sẽ đạt
tới cái nhỏ vô hạn. Khoa học đã đạt tới cái nhỏ vô hạn, điện tử. Bây giờ mọi thứ
đã biến mất, chẳng cái gì thấy được cả. Điện tử không thấy được, không ai có thể
thấy nó cả. Thế thì tại sao họ lại nói điện tử hiện hữu?
Vật lí đã thành
gần như là siêu hình, và những phát biểu vật lí, những phát biểu của các nhà vật
lí, có vẻ gần như triết lí, huyền môn, bởi vì họ nói, “Chúng ta không thể thấy
được điện tử, chúng ta chỉ có thể quan sát được hậu quả. Chúng ta có thể thấy hậu
quả nhưng không thấy nguyên nhân, Chúng ta suy luận rằng điện tử phải có đó, bởi
vì, nếu điện mà không có đó, làm sao những hậu quả này có thể có đó được?”
Đây là điều các
nhà huyền môn bao giờ cũng nói. Họ nói, “Chúng ta không thể thấy Thượng đế được
nhưng chúng ta có thể thấy sáng tạo này. Và Thượng đế là nguyên nhân còn sáng tạo
này là hậu quả. Chúng ta không thể nào thấy được Thượng đế nhưng chúng ta thấy
sáng tạo - ngài phải có đó, nếu không làm sao sáng tạo này là có thể được?”
Nếu bạn nghe tiếng
nói của tôi và bạn không thể thấy tôi, bạn sẽ phải suy luận rằng tôi phải ở đâu
đó, nếu không làm sao bạn có thể nghe thấy tiếng của tôi được? Hậu quả là thấy
được nhưng nguyên nhân không thấy được. Khoa học đã đạt tới cái nhỏ vô hạn, và
cái nhỏ đó đã biến mất hoàn toàn - bởi vì nó đã thành nhỏ thế, nhỏ thế, nhỏ
mãi, tinh vi đến mức bây giờ bạn không thể nắm bắt được nó.
Tôn giáo đạt tới
cái lớn vô hạn. Nó trở thành lớn thế, lớn thế bao la đến mức bạn không thể nào
thấy được biên giới của nó. Nó trở thành bao la đến mức bạn không thể nắm bắt
được nó, bạn không thể níu bám lấy nó, bạn không thể định ranh giới nó. Cái nhỏ
vô hạn không thể nào thấy được, nó trở thành không thể trông thấy được; còn cái
lớn vô hạn cũng không thể nào thấy được, nó trở thành không thể trông thấy được.
Thế rồi Tăng
Xán nói một điều hay: cả hai chúng đều là một bởi vì cả hai là vô hạn. Và cái
vô hạn, dù nhỏ hay lớn cũng không có gì khác biệt, chúng là một.
Lớn vô hạn và
nhỏ vô hạn; không khác biệt, vì các định nghĩa đã tan biến và không biên giới
nào thấy được.
Cho nên điều đó
cũng đúng với hiện hữu và không hiện hữu.
Khi bạn là trống
rỗng toàn bộ, không bản ngã, không ai ở bên trong ngôi nhà, bạn hiện hữu hay
không hiện hữu? Bạn hiện hữu hay bạn không hiện hữu? Chẳng điều gì có thể được
nói ra cả.
Mọi người hay hỏi
đi hỏi lại Phật, “Điều gì xảy ra khi người ta trở thành vị phật? Người đó hiện
hữu hay người đó không hiện hữu? Linh hồn tồn tại hay không? Điều gì sẽ xảy ra
khi Phật rời khỏi thân thể? Ông ấy sẽ ở đâu? Ông ấy sẽ ở đâu đó hay không đâu cả?”
Còn Phật nói,
“Những câu hỏi này, các ông đừng hỏi. Các ông đơn giản trở thành vị phật và thấy,
bởi vì bất kì điều gì ta nói cũng sẽ sai.” Và ông ấy bao giờ cũng tránh cám dỗ
trả lời những câu hỏi như vậy.
Đừng phí thời
gian trong hoài nghi và biện luận mà chẳng liên quan gì với điều này.
Thực tại không
phụ thuộc vào biện luận của bạn. Dù bạn chứng minh theo cách này hay cách khác,
cũng chẳng liên quan - thực tại có đó. Nó đã có đó trước bạn rồi, nó sẽ có đó
sau bạn. Nó không phụ thuộc vào tâm trí bạn; ngược lại, tâm trí bạn phụ thuộc
vào nó. Nó không cần bất kì chứng minh hay bác bỏ nào. Nó tồn tại theo cách của
nó. Bạn không thể chứng minh nó, bạn không thể bác bỏ nó.
Nhưng mọi người
cứ biện luận liệu Thượng đế tồn tại hay không. Cả nghìn cuốn sách đã được xuất
bản hàng năm về liệu Thượng đế tồn tại hay không. Tất cả đều ngu xuẩn! Những
người nói có và chứng minh, và những người nói không và chứng minh, cả hai đều
trong cùng con thuyền - con thuyền của chứng minh, biện luận, logic.
Và nếu có Thượng
đế, ngài phải cười to. Ngài có cần biện luận của bạn không? Bạn đang nói gì vậy?
Bạn đang nói rằng nếu ngài có đó, thế thì sự hiện hữu của ngài phụ thuộc vào liệu
bạn có chứng minh được ngài hay không. Dù bất kì điều gì bạn làm - chứng minh
hay bác bỏ - nhưng bạn có cho rằng sự hiện hữu của ngài phụ thuộc vào biện luận
của bạn không?
Sự tồn tại có
đó chẳng cần biện luận của bất kì ai. Không nhân chứng nào được gọi ra, và chẳng
có toà án nào để mà quyết định. Làm sao bạn có thể phán xét được? Và ai là quan
toà? Và biện luận thì cứ tiếp tục mãi; hàng triệu năm người ta đã tranh luận
theo cách này cách nọ. Kẻ vô thần có đó và họ cứ tiếp diễn mãi mà chẳng ai có
thể thuyết phục được họ; kẻ hữu thần có đó và họ cứ tiếp diễn mãi mà chẳng ai
có thể làm cho họ hoài nghi được. Hữu thần và vô thần cả hai đều tranh cãi và
không biện luận nào chứng minh được là điều cuối cùng, vấn đề vẫn còn như cũ.
Tăng Xán nói tất
cả mọi biện luận đều không liên quan: hữu thần, vô thần cả hai không liên quan;
ủng hộ, chống đối cả hai không liên quan. Bạn đang làm điều ngu xuẩn, bởi vì thực
tại có đó, nó không cần bất kì bằng chứng nào. Nó đã có đó rồi, nó bao giờ cũng
có đó, nó bao giờ cũng sẽ có đó.
Chân lí có
nghĩa là ‘cái đang đó’. Biện minh, bạn đơn giản làm phí hoài năng lượng và thời
gian của mình. Thay vì thế, tận hưởng nó. Thay vì thế, hội nhập vào trong nó.
Thay vì thế, sung sướng trong nó. Thay vì thế, sống nó! Và nếu bạn sống, bạn bắt
đầu mang hương vị của thực tại quanh mình. Nếu bạn sống nó và bạn sung sướng
trong nó, cái gì đó của cái bao la, cái gì đó của cái vô hạn, bắt đầu được bầy
tỏ bởi sự tồn tại hữu hạn của bạn. Dần dần các biên giới của bạn cũng tan biến
đi, dần dần bạn mất đi. Giọt nước rơi vào trong đại dương và trở thành đại
dương.
Đừng phí thời
gian vào biện bác. Triết gia là những kẻ ngu, và là kẻ ngu nguy hiểm hơn những
người ngu thường, bởi vì người ngu thường đơn giản ngu xuẩn còn triết gia nghĩ
họ trí tuệ. Và họ cứ thế mãi! Tôi nhìn vào một Hegel hay một Kant - toàn bộ cuộc
sống của họ cứ đi biện luận và họ chưa bao giờ đạt tới đâu cả.
Chuyện đã xảy
ra:
Một cô gái cầu
hôn với Immanual Kant, cô ấy muốn lấy ông ấy. Ông ấy nói, “Vâng, tôi sẽ nghĩ về
điều đó.”
Một nhà tư tưởng,
một nhà tư tưởng lớn và một nhà logic lớn, làm sao ông ấy có thể tiến bước được?
Thậm chí nếu đấy là tình yêu thì ông ấy cũng phải nghĩ về nó trước hết. Và người
ta nói rằng ông ấy đã nghĩ và nghĩ và nghĩ mãi. Thế rồi ông ấy thu thập tất cả
mọi biện luận ủng hộ và chống đối - bởi vì có những người đang chống lại tình
yêu, có những người đang ủng hộ tình yêu, có những người chống lại hôn nhân, những
người ủng hộ hôn nhân, và họ đều tranh cãi. Cho nên ông ấy tích luỹ lại tất cả
dữ liệu về hôn nhân, tình yêu, ủng hộ, chống đối. Người ta nói rằng ông ấy đã
tích luỹ ba trăm biện luận ủng hộ và chống đối hôn nhân. Ông ấy trở nên rất lẫn
lộn. Phải làm gì? Quyết định thế nào?
Thế rồi ông ấy
thử và thử, và thế rồi ông ấy đã có thể tìm ra một biện luận nghiêng về hôn
nhân. Và biện luận đó là thế này: rằng nếu có một khả năng, hai phương án có vẻ
ngang nhau, thế thì bao giờ cũng chọn phương án sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm
hơn. Hôn nhân hay không hôn nhân - nếu tất cả các biện luận đều ngang nhau - thế
thì không hôn nhân ông ấy đã biết rồi, bởi vì ông ấy là người vô dục. Thế thì tốt
hơn cả là đi vào hôn nhân, bởi vì ít nhất đấy cũng là điều gì đó mới. Khi tất cả
các biện luận bằng nhau, thế thì làm sao quyết định được? Cho nên cứ đi và biết
về hôn nhân bằng kinh nghiệm.
Thế là ông ấy
đi và tới gõ cửa nhà cô ấy ấy. Người bố ra mở cửa và Immanuel Kant nói, “Tôi đã
quyết định. Con gái của bác đâu ạ?”
Người bố nói,
“Chậm quá rồi - nó là mẹ của ba đứa trẻ rồi.”
Bởi vì hai mươi
năm đã trôi qua và phụ nữ không ngu xuẩn đến mức chờ đợi lâu thế. Họ bao giờ
cũng khôn ngoan hơn, khôn ngoan hơn theo một cách bản năng. Đó là lí do tại sao
phụ nữ lại không là các triết gia lớn. Họ không ngu xuẩn đến thế, họ bản năng
hơn, trực giác hơn, gần tự nhiên hơn, quan tâm nhiều tới việc sống hơn là biện
minh.
Đó là lí do tại
sao với đàn ông, đàn bà bao giờ cũng dường như quan tâm tới những điều nhỏ bé,
không quan tâm tới những vấn đề lớn, những điều rất nhỏ bé: trang phục, trang
điểm. Nhưng nhìn đấy - họ quan tâm tới những điều nhỏ bé bởi vì cuộc sống bao gồm
những điều nhỏ bé. Những vấn đề lớn lao chỉ ở trong tâm trí, không trong cuộc sống.
Dù bạn có quyết định Thượng đế tồn tại hay không cũng chẳng khác biệt gì. Bạn
phải ăn hai lần một ngày, bạn phải mặc ấm khi trời quá lạnh và bạn phải vào
bóng râm khi trời quá nóng - dù bạn có quyết định Thượng đế tồn tại hay không,
cũng chẳng khác biệt gì. Cuộc sống bao gồm những điều nhỏ bé. Và nếu cuộc sống
bao gồm những điều nhỏ bé thế thì điều nhỏ bé lại không nhỏ bé - bởi vì cuộc sống
bao gồm chúng, chúng là quan trọng.
Đừng phí thời
gian trong hoài nghi và biện luận mà chẳng liên quan gì với điều này.
Một điều, mọi
điều: di chuyển trong và quyện lẫn nhau, không phân biệt.
Sống trong hiểu
biết này là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.
Sống trong niềm
tin này là con đường đi tới bất nhị, bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin
cậy.
Những lời rất rất
có ý nghĩa, và còn ý nghĩa hơn nữa nếu bạn có thể nhìn ra ngoài lời đó.
Một điều, mọi
điều: di chuyển trong và quyện lẫn nhau...
Cuộc sống là một
đơn vị hữu cơ. Chẳng cái gì bị phân chia, mọi thứ đều là một. Nếu bạn nghĩ, nó
bị phân chia, phân chia là do tâm trí áp đặt. Nếu không thì mọi thứ đều trộn lẫn
nhau, quyện vào nhau, hợp nhất vào cái khác. Điều đó xảy ra vào mọi lúc. Bạn
không thấy điều đó bởi vì bạn đã trở thành hoàn toàn mù quáng với lời.
Bạn ăn quả; quả
trở thành máu bạn. Cây đã trộn lẫn vào trong bạn, biên giới bị mất đi. Và quả
này có thể đã ở trong máu của nhiều người trước đó, nhiều con vật, nhiều cây cối,
nhiều tảng đá. Năng lượng này, mà là quả đó, bao giờ cũng đã từng ở đó trong sự
tồn tại - tan chảy, hội nhập, nổi lên, đi từ cái này sang cái khác, đi qua mọi
biên giới.
Quan sát bất kì
hiện tượng nào. Quả trên cây, nó đang làm gì? Các nhà khoa học nói rằng quả
đang làm phép màu. Nó đang biến đổi đất, nó đang biến đổi ánh mặt trời, nó đang
biến đổi nước. Nó là phép màu, bởi vì bạn không thể ăn đất, bạn không thể ăn
tia sáng mặt trời một cách trực tiếp. Quả này, quả táo, đang làm phép màu. Nó
biến đổi mọi thứ và làm điều đó để cho bạn có thể hấp thu nó và nó trở thành
máu bạn.
Và năng lượng
này đã di chuyển bởi vì nó bao giờ cũng có đó. Toàn bộ năng lượng này vẫn còn
như cũ, bởi vì không có đâu khác để đi, cho nên năng lượng này không thể nào
kém đi hay nhiều hơn. Không gì được thêm vào cho vũ trụ, và không gì có thể bị
xoá bỏ đi. Bạn sẽ đem nó đi đâu? Cái toàn bộ vẫn còn như cũ.
Mới ngày nào quả
này mới chỉ là trong đất, bạn không thể ăn được nó. Quả này đã trong mặt trời,
vitamin D đã trong mặt trời. Bây giờ quả đã hấp thu nó, bây giờ đất đã biến đổi
- phép màu đã xảy ra: bùn nhão đã biến đổi thành quả ngon.
Và bạn ăn nó, nó
trở thành máu bạn. Máu bạn đang khuấy tung liên tục, nó tạo ra tinh dịch. Bây
giờ tinh dịch được sinh ra, nó trở thành đứa trẻ nhỏ. Bây giờ quả này, quả táo
này, đã đi vào trong đứa trẻ. Các biên giới ở đâu? Cây đi vào trong bạn, mặt trời
đi vào trong cây, đại dương đi vào trong cây, bạn đi vào trong đứa trẻ và điều
này cứ diễn ra mãi...
Mọi thứ đều
đang chuyển động. Hơi thở đang bên trong bạn sẽ ở trong tôi chút ít sau. Và hơi
thở là cuộc sống, cho nên cuộc sống của bạn và cuộc sống của tôi không thể nào
khác nhau được, bởi vì cũng hơi thở ấy bạn thở, thì tôi cũng thở. Tôi thở ra, bạn
hít vào; bạn thở ra, tôi hít vào.
Trái tim bạn và
trái tim tôi không thể rất khác nhau được. Chúng đang thở và đập với cùng đại
dương của sức sống đang bao quanh. Tôi gọi đây là hơi thở tôi, nhưng vào lúc
tôi gọi nó, thì nó không còn là của tôi nữa - nó đã di chuyển, nó đã đổi nhà,
bây giờ nó là hơi thở của ai đó khác. Điều bạn gọi là cuộc sống của bạn thì
không phải là của bạn. Nó không của ai cả, hay nó là của mọi người.
Khi ai đó nhìn
vào thực tại, thế thì người đó thấy rằng cái toàn thể là một đơn vị hữu cơ. Mặt
trời đang làm việc cho bạn, đại dương đang làm việc cho bạn, các vì sao đang
làm việc cho bạn. Mọi người quanh khắp thế giới đang làm việc cho bạn và bạn
đang làm việc cho họ. Bạn sẽ chết đi và dòi bọ sẽ ăn thân xác bạn, bạn sẽ trở
thành thức ăn cho chúng.
Bạn đang sẵn
sàng, chín muồi để chết, để trở thành thức ăn cho ai đó khác. Và điều này phải
là như vậy - bởi vì bạn đã làm bao nhiêu thứ thành thức ăn của mình, cuối cùng
bạn phải trở thành thức ăn của chúng. Mọi thứ đều là thức ăn cho ai đó khác. Nó
là một dây chuyền... và bạn muốn níu bám lấy cuộc sống. Và quả táo, nó cũng muốn
níu bám lấy cuộc sống; và lúa mì, lúa mì cũng muốn còn là bản thân nó. Thế thì
cuộc sống sẽ dừng lại.
Cuộc sống sống
qua cái chết. Bạn chết ở đây, ai đó trở nên sống ở kia; tôi thở ra, ai đó hít
vào. Cũng giống như việc thở ra theo nhịp điệu, việc thở là cuộc sống và cái chết.
Sống là hít vào, chết là thở ra.
Khi bạn chín muồi,
bạn sẽ rụng xuống đất. Thế thì dòi bọ sẽ ăn bạn và chim mồi sẽ tới và chúng sẽ
tận hưởng bạn. Bạn đã hưởng nhiều thức ăn rồi, bây giờ đến lượt bạn sẽ được
loài khác tận hưởng. Mọi thứ đều tan chảy, gặp gỡ, hội nhập. Cho nên tại sao phải
lo nghĩ? Điều này sẽ xảy ra, điều này đã xảy ra rồi. Chỉ cái toàn bộ là sống,
các cá thể là giả tạo. Chỉ cái tối thượng sống - tất cả những cái khác chỉ là
những con sóng trong nó, chúng tới rồi chúng đi.
Khi người ta thấy
thực tại chỉ ngay trước mũi, bỗng nhiên không có vấn đề gì, không lo âu, bởi vì
cái toàn thể cứ sống dù bạn sống hay không. Thế thì cái chết của bạn không phải
là vấn đề, thế thì cuộc sống của bạn cũng không phải là vấn đề. Bạn sẽ sống
trong cái toàn thể trong nhiều, nhiều triệu cách.
Đôi khi bạn sẽ
là quả cây... đó là ý nghĩa của khái niệm Hindu về hàng triệu yonic. Đôi khi bạn
trong con vật và đôi khi bạn trong sâu bọ và đôi khi bạn là cái cây và đôi khi
bạn là tảng đá - và cuộc sống cứ tiếp diễn.
Cho nên bạn là
không ai cả, theo một nghĩa nào đó, và bạn là mọi người theo nghĩa khác. Bạn là
cái trống rỗng theo nghĩa này và bạn tràn đầy theo nghĩa khác. Bạn không hiện hữu
theo nghĩa này và bạn là tất cả theo nghĩa khác - bởi vì bạn không tách rời.
Tách rời đem lại
lo âu. Nếu bạn lo âu, trong phiền não, điều đó có nghĩa là bạn đang nghĩ mình
tách biệt - bạn đang tạo ra vấn đề một cách không cần thiết cho chính mình.
Không cần thế, bởi vì cái toàn thể vẫn cứ sống; cái toàn thể không bao giờ chết,
nó không thể chết được. Chỉ bộ phận mới chết đi, nhưng cái chết đó cũng không
thực là chết, nó là tái sinh. Tại đây bạn chết đi, tại kia bạn sinh ra.
Một điều, mọi
điều: di chuyển trong và quyện lẫn nhau, không phân biệt.
Sống trong hiểu
biết này là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.
Thế thì tại sao
phải lo nghĩ về hoàn hảo? Điều đó nữa cũng là mục tiêu bản ngã. Điều này cần được
hiểu rất sâu sắc, bởi vì ngay cả người tôn giáo cũng cố gắng hoàn hảo. Nhưng bạn
là ai để mà hoàn hảo? Chỉ cái toàn thể mới có thể là hoàn hảo, bạn chẳng bao giờ
có thể hoàn hảo cả. Làm sao bạn có thể hoàn hảo được? Ngay cả Phật cũng phải ốm,
ông ấy cũng phải chết. Bạn không thể nào hoàn hảo được! Chính mục tiêu của hoàn
hảo là trò bản ngã. Cái toàn thể đã hoàn hảo rồi, bạn không cần phải lo nghĩ về
nó - và trong cái toàn thể thì bạn cũng hoàn hảo.
Hai từ cần được
hiểu: một là hoàn hảo, từ kia là cái toàn thể. Người tôn giáo thực sự quan tâm
tới cái toàn thể, không bao giờ quan tâm tới cái hoàn hảo, còn người giả tôn
giáo thì quan tâm tới cái hoàn hảo, không bao giờ quan tâm tới cái toàn thể.
Cái toàn thể có
nghĩa là, “Tôi không hiện hữu, cái toàn thể hiện hữu.” Và nó là hoàn hảo, bởi
vì làm sao nó có thể khác được? Không có so sánh, không có ai khác cả. Nhưng nếu
bạn đang nghĩ dưới dạng hoàn hảo, đạo đức, lí tưởng, tính cách, bạn phải thành
hoàn hảo, thế thì bạn sẽ phát điên.
Tất cả mọi người
hoàn hảo đều phát điên - đó là điểm cuối cùng của họ, cái tối thượng của họ - bởi
vì như một đơn vị tách biệt, bạn sẽ vẫn còn không hoàn hảo, bạn không thể nào
hoàn hảo được. Làm sao bạn có thể hoàn hảo được? - bởi vì năng lượng của bạn tới
từ cái toàn thể, nó đi tới cái toàn thể; bạn không hiện hữu. Con sóng phải vẫn
còn là con sóng, nó không thể trở thành đại dương được. Và nếu nó cố gắng quá vất
vả, nó sẽ phát điên.
Đó là lí do tại
sao trong thế giới của tôn giáo bạn thấy nhiều người bản ngã thế, bởi vì họ
đang cố gắng là hoàn hảo về mọi thứ. Họ cứ nhấn mạnh vào hoàn hảo. Họ không thể
thảnh thơi được, họ bao giờ cũng căng thẳng. Và bao giờ một cái gì đó cũng sẽ
sai, và họ phải làm cho nó đúng - và họ bao giờ cũng sẽ vẫn còn trong lo âu.
Vào nhà thương điên mà xem, và tại đó bạn sẽ thấy chín mươi phần trăm là những
người theo hoàn hảo.
Con người của
hiểu biết vẫn còn thảnh thơi. Điều đó không có nghĩa là người ấy không quan
tâm. Không, người ấy quan tâm nhưng người ấy hiểu những giới hạn. Người ấy quan
tâm, nhưng người ấy biết rằng mình chỉ là bộ phận. Người ấy chưa hề nghĩ bản
thân mình là cái toàn thể, cho nên người ấy chưa bao giờ lo nghĩ.
Người ấy tận hưởng
bất kì cái gì người ấy đang làm, biết rõ rằng nó vẫn còn không hoàn hảo, nó
không thể là hoàn hảo được. Nhưng người ấy tận hưởng việc làm nó, và bởi việc tận
hưởng nó, bất kì cái gì hoàn hảo cũng đều có thể xảy ra mà không tạo ra lo nghĩ
gì trong người ấy. Người ấy yêu nó, biết rõ rằng nó sẽ không là điều tuyệt đối.
Nó không thể thế; một cái gì đó sẽ còn lại không hoàn hảo, đấy là bản chất của
mọi sự.
Đó là lí do tại
sao ở phương Đông chúng ta bao giờ cũng tin - và tin vào điều rất thực - rằng bất
kì khi nào ai đó trở thành hoàn hảo thì người ấy sẽ không sinh ra nữa, người ấy
biến mất khỏi thế giới này. Người ấy phải thế, bởi vì trong thế giới này chỉ
cái không hoàn bảo mới có thể. Người ấy không còn khớp với đây nữa, người ấy
không còn được cần tới nữa, người ấy tan biến trong cái toàn thể.
Ngay cả vị Phật
tới khoảnh khắc chót của cuộc sống mình cũng vẫn còn không hoàn hảo, nhưng
không lo nghĩ về nó. Đó là lí do tại sao Phật tử có hai thuật ngữ cho niết bàn.
Việc chứng ngộ tối thượng họ gọi là mahaparinirvana - đại bát niết bàn, còn việc
chứng ngộ họ gọi là nirvana - niết bàn. ‘Niết bàn’ có nghĩa là vị Phật đang
trong thân thể. Ông ấy đã đạt tới bừng sáng, ông ấy đã trở thành người biết,
nhưng ông ấy vẫn trong thân thể, thân thể của cái không hoàn hảo. Ông ấy vẫn
trong thế giới này của các bộ phận không hoàn hảo. Đây là niết bàn, chứng ngộ.
Thế rồi khi ông
ấy rời khỏi thân thể, khi ông ấy đơn giản biến mất trong cái trống rỗng tối thượng,
đó là mahaparinirvana - đại bát niết bàn, đó là đại chứng ngộ. Bây giờ cái
không hoàn hảo biến mất, bây giờ không có cá thể, bây giờ ông ấy là cái toàn thể.
Chỉ cái toàn thể mới có thể hoàn hảo. Bây giờ Phật có thể hoàn hảo, bởi vì bây
giờ ông ấy đã tan biến vào trong cái toàn thể, ông ấy là đại dương.
Cho nên nhớ điều
này cho rõ, bởi vì tất cả mọi chủ nghĩa hoàn hảo đều là nỗ lực bản ngã, bạn
phát điên theo mọi thứ. Cố làm điều đó tốt nhất mà bạn có thể làm được, nhưng đừng
phát cuồng về nó; làm tốt nhất mà bạn có thể làm được và chấp nhận giới hạn đó.
Giới hạn này sẽ có đó, ngay cả về tính cách của bạn, đạo đức, mọi thứ!
Thậm chí thánh
nhân cũng phải để ra chút ít không gian cho tội nhân, bởi vì tội nhân sẽ đi
đâu? Cho nên có thể, chín mươi chín phần trăm là thánh nhân, nhưng một phần
trăm của tội nhân sẽ có đó. Và điều ngược lại xảy ra: bạn có thể trở thành tội
nhân chín mươi chín phần trăm nhưng một phần trăm của thánh nhân sẽ vẫn có đó.
Nó phải là như vậy, bởi vì bạn sẽ bỏ phần kia đi đâu? Bạn có thể bắt ép nó tới
chính cực điểm, nhưng một phần trăm của cái kia sẽ vẫn còn ở đó. Và nếu bạn
phát điên về nó, thì cũng chẳng ích gì.
Con người của
hiểu biết chấp nhận các giới hạn. Người ấy chấp nhận các khả năng, cái mà có thể.
Người ấy biết cái không thể được, người ấy không bao giờ thử cái không thể được.
Người ấy thảnh thơi và tận hưởng cái có thể. Và người ấy càng tận hưởng thì cái
hoàn hảo càng tới với cuộc sống người ấy. Nhưng không còn lo nghĩ nữa, đấy là
biết ơn - và đây là khác biệt.
Nếu bạn tới với
một người thực sự tôn giáo, bạn sẽ cảm thấy ân huệ xung quanh người đó, vô nỗ lực.
Người ấy chẳng làm gì cho bản thân mình, người ấy đơn giản thảnh thơi trong điều
tối thượng, và bạn cảm thấy cái vô nỗ lực bao quanh người ấy.
Nếu bạn tới một
người là người theo thuyết hoàn hảo, người giả tôn giáo, thế thì mọi điều bạn
thấy sẽ là nhân tạo, sẽ không có ân huệ. Mọi thứ đều rõ ràng, mọi chuyển động đều
có tính toán, tinh ranh. Mọi thứ người ấy làm đều là theo kỉ luật, không tự
phát. Người ấy sống trong luật lệ; luật lệ riêng của người ấy trở thành sự cầm
tù người ấy. Người ấy không thể cười, người ấy không thể là đứa trẻ, người ấy
không thể là hoa. Dù người ấy là gì, người ấy cũng đưa nhiều nỗ lực vào trong
nó đến mức mọi thứ đều trở thành căng thẳng và đi sai. Nó không phải là sự tuôn
chảy tự phát.
Và điều này nên
là tiêu chuẩn - nếu bạn đi tới thầy thì đây nên là tiêu chuẩn - rằng thầy là luồng
chảy tự phát. Chỉ thế thì thầy mới có thể giúp bạn trở thành luồng chảy tự phát
về phần bạn. Nếu thầy là người theo thuyết hoàn chỉnh bó buộc, ông ấy sẽ làm
què quặt bạn, ông ấy sẽ giết chết bạn hoàn toàn. Ông ấy sẽ chặt bạn ra theo nhiều
cách, và vào lúc ông ấy cho là bạn hoàn chỉnh, bạn chết.
Chỉ cái gì chết
mới có thể hoàn hảo. Cái còn sống nhất định vẫn còn không hoàn hảo, nhớ lấy lấy
điều này.
Sống trong hiểu
biết này là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.
Người ta đơn giản
sống! Người ta sống toàn bộ, người ta sống toàn thể, và không bận tâm về hậu quả,
điều xảy ra.
Sống trong niềm
tin này...
Và đây là niềm
tin cho Tăng Xán, và đây là niềm tin cho tôi nữa. Đây là tin cậy.
Người theo thuyết
hoàn hảo không bao giờ tin cậy bởi vì người ấy bao giờ cũng tìm lầm lỗi. Người ấy
chưa hề tin cậy vào cái gì. Thậm chí nếu bạn tặng cho người ấy bông hồng, người
ấy cũng ngay lập tức thấy cái không hoàn hảo. Người ấy sẽ không nhìn vào bông hồng,
người ấy sẽ nhìn vào cái không hoàn hảo. Con mắt người ấy là con mắt của logic,
không phải của tình yêu. Người ấy bao giờ cũng nghi ngờ; người ấy không thể nào
tin cậy vào bất kì ai, bởi vì người ấy không thể tin cậy vào bản thân mình.
Tới cái gọi là
các thánh nhân mà xem - họ không thể tin cậy vào bản thân mình được. Họ sợ, bởi
vì bất kì cái gì họ đã ép buộc đều bị ép buộc, nó không tự nhiên, và họ biết nếu
họ thảnh thơi thế thì mọi sự sẽ đi sai. Nếu một phụ nữ đẹp tới một thánh nhân,
bạn có thể thấy rằng ông ấy trở nên bồn chồn, bất ổn. Điều đó có thể không trên
bề mặt, nhưng nếu bạn quan sát sâu sắc thì bạn có thể cảm thấy nó, bởi vì ông ấy
đã áp đặt brachmacharya, vô dục, và người phụ nữ kia là nguy hiểm. Ông ấy không
thể nào cho phép người phụ nữ này được ở đó lâu, bởi vì thế thì sự không tin cậy
của ông ấy về bản thân mình sẽ lộ ra.
Người không tin
cậy vào năng lượng sống của riêng mình thì không thể tin cậy vào ai được. Người
ấy là kẻ thù của con người, kẻ đầu độc. Và kẻ đầu độc thì rất tính toán - họ phải
như vậy, bởi vì họ phải biện minh và bảo vệ bản thân mình, và họ phải phụ thuộc
vào tâm trí của riêng mình.
Và những kẻ đầu
độc này đã làm hại nhiều lắm, làm tổn thương toàn thể nhân loại đến mức mà
không thể nào nghĩ được làm sao nhân loại lại có thể thoát ra được điều đó. Họ
đã đầu độc mọi thứ: “Cái này xấu, cái kia xấu, cái này là tội lỗi, cái kia là
sai quấy.” Và họ đã tạo ra đống lộn xộn quanh bạn đến mức bất kì cái gì bạn làm
thì bạn cũng sẽ cảm thấy mặc cảm. Nếu bạn không làm, bạn sẽ cảm thấy mặc cảm bởi
vì tự nhiên.
Nếu bạn yêu, bạn
đã sa ngã; nếu bạn không yêu, bạn cứ có cảm giác thôi thúc sâu sắc để yêu. Nó tới
từ tự nhiên, chẳng có gì sai trong đó cả. Nó cũng tự nhiên như là đói hay khát
vậy, và cũng đẹp như đói và khát. Nhưng thánh nhân của bạn muốn bạn chỉ là người
chất dẻo - không đói, không khát, không yêu - thế thì bạn mới hoàn hảo.
Nếu toàn bộ cái
máy này được làm bằng chất dẻo thế thì sẽ dễ dàng. Và các nhà khoa học đang
nghĩ theo hướng này, để làm toàn bộ máy móc chất dẻo. Thế thì bạn chẳng cần thức
ăn gì, bạn không cần tình yêu gì, bạn không cần thứ gì cả. Bạn trở thành cái
máy, bạn là người máy. Đôi khi, khi cái gì đó đi sai, bạn có thể được gửi tới
xưởng. Và hàng ngày bạn có thể đi tới trạm tiếp liệu, và họ có thể đổ ít xăng
vào bạn và mọi sự đều ổn thoả. Thế thì bạn sẽ là người theo thuyết hoàn hảo, thế
thì bạn sẽ là hoàn hảo.
Nhưng cuộc sống
như nó đang đấy, cuộc sống là tinh tế; nó không phải là chất dẻo, nó rất tinh tế.
Bạn không có dây dợ, bạn có thần kinh. Và sự cân bằng bao giờ cũng di động.
Không cái gì chắc chắn cả, và mọi sự cứ tan chảy và hội nhập vào cái khác. Đó
là lí do tại sao bạn sống động.
Con người của
hiểu biết không bận tâm, người ấy không lo âu về cái không hoàn hảo. Người ấy
không nghĩ dưới dạng hoàn hảo chút nào; người ấy chỉ sống các khoảnh khắc toàn
thể nhất có thể được, toàn bộ nhất có thể được. Và người ấy càng sống toàn bộ
hơn, người ấy càng trở nên có khả năng sống nó hơn.
Một ngày sẽ tới...
người ấy đơn giản sống mà không bó buộc ý tưởng gì, không nghĩ về bất kì khái
niệm nào, không tạo ra bất kì luật lệ và qui tắc nào về cuộc sống mình. Người ấy
đơn giản sống và tận hưởng và vui sướng.
Sống trong niềm
tin này là con đường đi tới bất nhị... và đây là đức tin ...bởi vì cái bất nhị
là một với tâm trí tin cậy.
Và sâu bên
trong, nếu bạn có tâm trí tin cậy, cái bất nhị sẽ ở ngay trước bạn. Sâu bên dưới
nếu bạn có hoài nghi, thế thì lí thuyết, suy nghĩ, lời, triết lí, học thuyết sẽ
có đó, và bạn sẽ hoàn toàn mù loà. Bạn sẽ không có khả năng thấy cái gần, bạn sẽ
có khả năng chỉ nghĩ về cái ở xa. Bên trong mà tin cậy, thì bên ngoài là thực tại;
bên trong mà tin cậy, thì bên ngoài là chân lí. Tin cậy và chân lí gặp gỡ - và
không có gặp gỡ nào khác...
...bởi vì cái bất
nhị là một với tâm trí tin cậy.
Lời!
Đạo vượt ra
ngoài ngôn ngữ, vì trong nó không có hôm qua, không có ngày mai, không có hôm
nay.
Điều cuối cùng:
Tăng Xán đang nói rằng ngôn ngữ là có thể nếu thời gian hiện hữu, ngôn ngữ là
cùng động thái như thời gian. Đó là lí do tại sao ngôn ngữ lại có ba thời: quá
khứ, hiện tại, tương lai - cũng giống như thời gian: quá khứ, hiện tại, tương
lai. Ngôn ngữ là thời gian, bị phân chia thành cùng phân loại như thời gian.
Còn cuộc sống thì vượt ra ngoài. Cuộc sống không là quá khứ. Quá khứ ở đâu? Bạn
không thể nào tìm ra nó ở đâu cả.
Tôi đã từng
nghe rằng có lần chuyện xảy ra:
Một người tới
thăm một viện bảo tàng lớn. Người này rất giầu, cho nên người ta dành cho ông
ta người thuyết minh giỏi nhất. Người này nhìn vào một cái đầu và ông ta hỏi,
“Đây là ai vậy?”
Người thuyết
minh thực sự không biết, cho nên anh ta nói, “Đấy là cái đầu của Napoleon.”
Thế rồi đến một
cái đầu nhỏ; và lần nữa người này lại hỏi. Và người thuyết minh lại bị kích động
bởi người giầu này, và sợ đến mức anh ta hoàn toàn lẫn lộn bên trong và anh ta
nói, “Đây cũng là đầu của Napoleon.”
Cho nên người
giầu nói, “Anh ngụ ý gì vậy? Hai đầu sao?”
Thế là người
thuyết minh bị khó xử, và câu trả lời nào đó phải được đưa ra chứ. Cho nên anh
ta nói, “Vâng, đây là cái đầu thời trẻ con của ông ấy còn kia là cái đầu lúc về
già.”
Nếu quá khứ tồn
tại, thế thì cái đầu trẻ con sẽ có đó, thế thì nhiều cái đầu sẽ có đó; khi bạn
chết bạn sẽ bỏ lại hàng triệu cái đầu đằng sau. Nhưng bạn bỏ lại chỉ mỗi cái đầu
thôi, không hàng triệu đầu. Quá khứ biến mất; quá khứ không ở đâu cả, chỉ trong
kí ức. Tương lai ở đâu? Tương lai không ở đâu cả, chỉ trong tưởng tượng. Quá khứ
là cái không phải là bây giờ và tương lai là cái chưa có. Đó là lí do tại sao
các nhà huyền môn bao giờ cũng nói: Chỉ hiện tại là có. Nhưng Tăng Xán còn đi
thêm lên một bước và ông ấy nói:
...không có hôm
qua, không có ngày mai, không có hôm nay.
Thậm chí không
có cả hiện tại nữa. Ông ấy ngụ ý gì? - bởi vì ông ấy là đúng, tuyệt đối đúng. Nếu
không có quá khứ và không tương lai, thế thì làm sao hiện tại có thể tồn tại được?
Bởi vì hiện tại tồn tại chỉ giữa quá khứ và tương lai.
Hiện tại là gì?
- bước chuyển. Từ quá khứ bạn chuyển tới tương lai; trong việc chuyển đó, chỉ
trong một khoảnh khắc, là hiện tại. Hiện tại là gì? - Nó chỉ là bước chuyển từ
quá khứ sang tương lai, nó là cánh cửa từ buồng này sang buồng khác. Nhưng nếu
cả buồng này không tồn tại, buồng kia cũng không tồn tại, thế thì làm sao cánh
cửa có thể tồn tại được? Nó là cây cầu giữa quá khứ và tương lai. Và nếu cả hai
bờ đều không có, làm sao cây cầu có thể tồn tại được?
Tăng Xán là phải.
Tăng Xán nói: Không quá khứ không tương lai không hiện tại. Ông ấy đang nói
không có thời gian. Và toàn bộ ngôn ngữ phụ thuộc vào thời gian, quá khứ, tương
lai, hiện tại. Ngôn ngữ là sáng tạo của tâm trí, thời gian cũng là sáng tạo của
tâm trí.
Khi bạn vứt bỏ
ngôn ngữ, thời gian biến mất. Khi bạn vứt bỏ suy nghĩ, không có quá khứ, không
hiện tại, không tương lai. Bạn đi ra ngoài thời gian, không có thời gian. Khi
không có thời gian, có vĩnh hằng. Khi không có thời gian, bạn đã đi vào trong
thế giới của điều vĩnh hằng.
Chân lí là vĩnh
hằng. Và tất cả những điều bạn đã thu được đều là phản ánh tạm thời của chân
lí.
Nó cũng giống
như trăng lên trên trời, đó là đêm trăng tròn, và bạn nhìn sâu vào trong hồ và
mặt trăng có đó. Mặt trăng này là tất cả những cái mà bạn có - mặt trăng ở
trong hồ.
Tâm trí soi
gương; tất cả chân lí mà bạn có đều được soi gương qua tâm trí, chúng là sự phản
xạ.
Tăng Xán đang
nói gì? Tăng Xán đang nói: Quên hồ này đi! bởi vì đây là tấm gương. Nhìn ra
ngoài, chỉ thế thì bạn mới có khả năng thấy trăng thực - và nó có đấy.
Nhưng bạn lại
quá đồng nhất với cái hồ, với tâm trí soi gương. Vứt bỏ tâm trí đi và bỗng
nhiên mọi thứ mà bạn bỏ lỡ lại khớp, mọi thứ mà bạn đã tìm kiếm lại xảy ra, mọi
thứ mà bạn bao giờ cũng mơ ước và ham muốn lại có đấy. Mọi thứ được hoàn thành.
Toàn bộ thông
điệp này là làm sao vứt bỏ tâm trí, ngôn ngữ và thời gian.
Kết thúc quyển “Tín Tâm Minh – Sách về
cái Không” – Quay về Mục lục