Osho - Chiều bên kia cái biết
Chương 5. Sinh thành của con người mới
Biến cố nào làm cho Thầy hướng tới
tâm linh? Phép mầu đó là gì?
Đã không có biến
cố như vậy. Việc xảy ra nhiều lần là biến cố nào đó xuất hiện và một người lấy
bước ngoặt trong cuộc sống. Việc cũng xảy ra là xem như kết quả của tác động tập
thể của nhiều biến cố, cuộc đời của một người được thay đổi. Trong cuộc sống của
tôi không có những biến cố có thể được lựa ra như đã gây ra sự thay đổi như vậy.
Tuy nhiên, có nhiều biến cố mà tác động tập thể của chúng có thể đã gây ra điểm
ngoặt, nhưng khi nào điều này xảy ra thì không thể được xác định. Hơn nữa, tôi
không nghĩ tôi đã bao giờ "biến thành tâm linh." Tôi đã theo hướng đó
rồi. Tôi không nhớ ngày nào khi tôi không nghĩ về tâm linh. Từ chính những kí ức
đầu tiên của mình, tôi đã từng nghĩ về nó.
Nhiều biến cố
đã xuất hiện mà trong đó tác động tập thể là cần được xem xét tới. Tôi không nhớ
một biến cố riêng biệt nào là nổi bật cả. Thông thường, đôi khi chỉ một cái cớ
cũng đủ làm chệch tâm trí một cách bất thần. Tuy nhiên, tôi tin rằng tâm trí bị
làm chệch đi hướng tới cái gì đó chỉ bởi một biến cố thì cũng có thể trở lại nữa.
Nhưng nếu việc rẽ ngoặt là kết quả tập thể của nhiều biến cố, thế thì không có
việc trở lại bởi vì việc rẽ ngoặt đó là sâu sắc hơn và đã đi vào trong nhiều tầng
của nhân cách con người ta. Cũng như bởi một cú huých bạn có thể bị buộc vào một
chiều hướng nào đó, cho nên cũng có thể có cú huých khác theo hướng ngược lại
gây ra cho bạn trở lại.
Lần nữa, rẽ ngoặt
chỉ bởi một cú huých là một kiểu phản ứng lại. Nó là có thể, nhưng bạn lại
không sẵn sàng đầy đủ cho nó và bạn đơn giản trở thành bị chệch hướng. Khi tác
động của cú huých đó tan biến, bạn có thể trở lại. Nhưng nếu mọi khoảnh khắc của
cuộc sống dần dần và vững chắc đưa bạn tới một trạng thái nơi thậm chí bản thân
bạn cũng không có khả năng quyết định được làm sao bạn có thể tới đó, việc trở
lại từ phản ứng đó là không thể được - bởi vì thế thì thậm chí điều kiện đó trở
thành một phần của hơi thở bạn, nói đại loại như vậy.
Tuy nhiên, một
kí ức trong cuộc sống của tôi mà đáng nhớ là kí ức về cái chết. Khó mà nói được
tôi có thể đã nghĩ cái gì vào ngày đó. Thời thơ ấu của tôi trôi qua tại nhà ông
bà ngoại tôi và tôi đã có tình yêu lớn với họ. Tôi đã không ở với mẹ và bố tôi
trong thời thơ ấu mà với ông bà ngoại tôi.
Mẹ tôi là đứa
con duy nhất của họ. Họ cảm thấy rất đơn độc, cho nên họ muốn nuôi tôi. Do đó,
cho tới bẩy tuổi, tôi đã ở với họ. Tôi đã coi họ như mẹ và bố tôi. Họ rất giầu
có và đủ mọi tiện nghi có thể có. Do đó, tôi đã được nuôi lớn như một hoàng tử.
Tôi có tiếp xúc với bố và mẹ tôi chỉ sau cái chết của ông bà ngoại tôi. Việc ra
đi của họ và cách thức mà theo đó việc đó xảy ra trở thành kí ức có giá trị đầu
tiên với tôi bởi vì tôi đã chỉ yêu họ và nhận tình yêu từ họ. Việc ra đi của họ
là rất kì lạ. Cái làng mà họ đã ở vào quãng ba mươi hai dặm xa cách với mọi
thành phố. Tại đó chẳng có bác sĩ mà cũng không vaidya, người hành nghề thuốc
ayurvedic.
Trong ngay đợt
tấn công đầu tiên của cái chết vào ông tôi, ông đã mất tiếng nói. Trong hai
mươi bốn giờ chúng tôi chờ đợi trong làng để cái gì đó xảy ra. Tuy nhiên, chẳng
có gì cải thiện cả. Tôi nhớ lại cuộc vật lộn về phần ông trong nỗ lực nói điều
gì đó, nhưng ông đã không thể nói được. Ông đã muốn nói điều gì đó, nhưng không
thể nói ra được điều đó. Do đó, chúng tôi đã phải đưa ông vào thành phố trong
chiếc xe bò kéo. Dần dần các giác quan của ông cứ mất đi, hết cái nọ đến cái
kia. Ông đã không chết ngay lập tức, mà chết dần và đau đớn. Đầu tiên tiếng nói
của ông dừng lại, thế rồi đến việc nghe của ông. Thế rồi ông nhắm mắt. Trong
chiếc xe bò kéo, tôi đã quan sát mọi thứ một cách thật gần, và có một khoảnh
cách dài ba mươi hai dặm đường đi.
Bất kì cái gì xảy
ra cũng dường như bên ngoài việc hiểu biết của tôi. Đây là cái chết đầu tiên được
tôi chứng kiến, và tôi thậm chí đã không hiểu rằng ông đã chết. Nhưng dần dần mọi
giác quan của ông đều mất đi và ông trở thành vô thức. Trong khi chúng tôi còn ở
gần thành phố, ông đã chết một nửa rồi. Sau đó ông đã không trở lại có ý thức,
nhưng trong ba ngày ông vẫn tiếp tục thở. Ông đã chết một cách không có ý thức.
Việc mất dần
giác quan của ông và việc chết cuối cùng của ông trở thành được khắc ghi rất
sâu trong kí ức của tôi. Chính ông là người mà tôi có mối quan hệ sâu sắc nhất.
Với tôi, ông là đối tượng tình yêu duy nhất, và bởi vì cái chết của ông mà có lẽ,
tôi đã không có khả năng cảm thấy gắn bó với bất kì ai khác nhiều đến thế. Kể từ
đó trở đi, tôi đã một mình.
Điều kiện một
mình này đã nắm giữ tôi từ bẩy tuổi trở đi. Tính một mình trở thành bản chất của
tôi. Cái chết của ông đã giải phóng cho tôi mãi mãi khỏi mọi mối quan hệ. Cái
chết của ông với tôi trở thành cái chết của mọi gắn bó. Từ đấy về sau, tôi
không thể nào thiết lập được mối quan hệ với bất kì ai. Bất kì khi nào mối quan
hệ của tôi với bất kì ai bắt đầu trở nên thân mật, cái chết đó lại nhìn vào
tôi. Do đó, với bất kì ai tôi đã kinh nghiệm sự gắn bó nào đó, tôi đều cảm thấy
nếu không phải hôm nay, thì ngày mai người đó cũng có thể chết.
Một khi một người
trở nên nhận biết rõ ràng về tính chắc chắn của cái chết, thế thì khả năng cho
gắn bó bị lỏng dần theo cùng tỉ lệ. Nói cách khác, gắn bó của chúng ta đều dựa
trên việc quên lãng về sự kiện chết. Với bất kì người nào chúng ta yêu mến,
chúng ta vẫn tiếp tục tin rằng cái chết không phải không thể tránh được. Đó là
lí do tại sao chúng ta nói về tình yêu như cái bất tử. Chính khuynh hướng của
chúng ta là tin rằng bất kì ai chúng ta yêu mến đều sẽ không chết.
Nhưng với tôi
tình yêu là lúc nào cũng vậy bởi vì bị liên kết với cái chết. Điều này có nghĩa
là tôi không có khả năng yêu nếu không nhận biết về cái chết. Có thể có tình bạn,
có thể có từ bi, nhưng không có si mê - và do vậy tôi càng nghĩ về nó mãnh liệt,
điều đó càng trở nên rõ ràng với tôi mỗi ngày.
Vậy, cái điên
khùng của cuộc sống đã không ảnh hưởng tới tôi. Cái chết đã nhìn vào tôi trước
khi việc xô vào cuộc sống bắt đầu. Biến cố này có thể được coi như biến cố đầu
tiên để lại tác động và ảnh hưởng sâu sắc vào tâm trí tôi. Từ ngày đó trở đi, mọi
ngày, mọi khoảnh khắc, nhận biết về cuộc sống lúc nào cũng vậy đã trở thành được
gắn với nhận biết về cái chết. Từ đó trở đi, hiện hữu hay không hiện hữu đều có
cùng giá trị với tôi. Vào cái tuổi non nớt như vậy, cái đơn độc đã xâm chiếm
tôi.
Sớm hay muộn
trong cuộc sống - trong tuổi già - cái đơn độc cũng xâm chiếm mọi người. Nhưng
nó đã xâm chiếm tôi trước khi tôi biết bạn bè có nghĩa gì. Tôi có thể sống với
mọi người, nhưng dù tôi trong đám đông hay trong xã hội, với bạn bè hay người
thân, tôi vẫn cứ một mình. Không cái gì động chạm vào tôi cả; tôi vẫn còn không
bị đụng chạm.
Khi cái cảm
giác đầu tiên về đơn độc trở nên ngày một sâu sắc hơn, một cái gì đó mới bắt đầu
xảy ra trong cuộc sống. Ban đầu cái đơn độc đó đã làm cho tôi bất hạnh, nhưng dần
dần nó bắt đầu đổi thành hạnh phúc - bởi vì chính qui tắc là khi chúng ta trở
nên bị gắn bó với bất kì ai hay bất kì cái gì, theo cách này hay cách khác
chúng ta đều quay đi khỏi việc đối diện với chính mình. Thực tại, ham muốn về gắn
bó với ai đó hay cái gì đó là một phương cách để thoát khỏi cái ta của riêng
mình. Và khi người khác cứ trở nên ngày một quan trọng với chúng ta, với chính
cùng một mức độ người đó trở thành trung tâm cho chúng ta và chúng ta trở thành
ngoại vi.
Chúng ta liên tục
vẫn còn là bị định tâm vào người khác trong cả đời. Thế thì cái ta riêng của
mình không bao giờ có thể trở thành trung tâm được. Với tôi, khả năng của bất
kì ai khác trở thành trung tâm của tôi đã bị phá huỷ trong ngay bước đầu tiên của
cuộc sống. Trung tâm đầu tiên mới được tạo ra đã bị phá huỷ, và không có cách
nào khác ngoài việc trở lại cái ta riêng của tôi. Nói đại thể, tôi đã bị ném lại
về chính cái ta riêng của mình. Dần dần, điều đó đã làm cho tôi ngày càng hạnh
phúc hơn. Về sau tôi đi tới cảm thấy rằng việc quan sát gần gũi cái chết vào
lúc tuổi non nớt đã trở thành ân huệ trá hình cho tôi. Nếu cái chết như vậy mà
xuất hiện vào lứa tuổi muộn hơn, có lẽ tôi sẽ tìm vật thay thế khác cho ông tôi
rồi.
Cho nên tâm trí
càng chưa chín và hồn nhiên, càng khó cho nó trở nên thay thế một đối tượng
yêu. Tâm trí càng láu lỉnh, khéo léo, tinh ranh và tính toán, càng dễ cho nó trở
nên thay thế hay thế cái khác vào cái đã mất. Bạn càng thay thế nhanh chóng, bạn
càng sớm trở nên tự do với bất hạnh bị đưa tới từ đối tượng thứ nhất. Nhưng với
tôi thì đã không thể nào tìm ra cái thay thế vào chính cái ngày đó khi cái chết
xuất hiện.
Trẻ con không
có khả năng tìm ra vật thay thế một cách dễ dàng. Chỗ của vật yêu mến mà bị mất
vẫn còn trống rỗng. Bạn càng già, bạn càng có thể lấp đầy cái trống rỗng nhanh
chóng hơn, bởi vì thế thì người ta có thể nghĩ. Một lỗ hổng trong ý nghĩ có thể
được lấp đầy nhanh chóng, nhưng trống rỗng tình cảm thì không thể được lấp đầy
nhanh chóng. Một ý nghĩ có thể thuyết phục người ta nhanh chóng hơn, nhưng trái
tim không thể thuyết phục được. Và vào tuổi còn non nớt khi người ta chưa có khả
năng suy nghĩ mà chỉ có khả năng cảm, khó khăn là lớn hơn.
Do đó, người
khác có thể không trở thành quan trọng với tôi theo nghĩa là điều đó có thể cứu
tôi khỏi cái ta của riêng tôi. Cho nên tôi đã phải sống chỉ với cái ta của
riêng tôi. Ban đầu điều này dường như đem cho tôi bất hạnh, nhưng dần dần nó bắt
đầu cho tôi kinh nghiệm về hạnh phúc. Từ đó về sau, tôi đã không chịu bất kì bất
hạnh nào nữa.
Lí do cho bất hạnh
nằm ở trong việc gắn bó bản thân chúng ta với người khác, trong sự trông đợi từ
người khác, trong hi vọng thu được hạnh phúc từ người khác. Bạn chưa bao giờ thực
tế thu được hạnh phúc, nhưng hi vọng bao giờ cũng kéo dài. Và bất kì khi nào hi
vọng đó dọn đường, thất vọng bắt đầu.
Vậy, trong ngay
chính kinh nghiệm đầu tiên, tôi đã trở nên thất vọng với người khác tồi tệ tới
mức tôi đã không thử lần nữa. Chiều hướng đó đã đóng lại với tôi, và do vậy từ
đó trở đi tôi chưa bao giờ trở nên bất hạnh. Thế thì một kiểu hạnh phúc mới bắt
đầu được kinh nghiệm mà không bao giờ có thể tới từ người khác. Hạnh phúc không
bao giờ có thể tới được từ người khác cả; điều được tạo ra chỉ là hi vọng về hạnh
phúc tương lai. Thực tại, chỉ cái bóng của hạnh phúc là được nhận.
Đích xác điều
ngược lại là tình huống khi người ta đương đầu với chính mình lần đầu tiên. Khi
đương đầu với chính mình, bất hạnh được kinh nghiệm ngay từ ban đầu, nhưng hạnh
phúc đích thực dần tới khi sự đương đầu đó tiếp tục. Ngược lại, đương đầu với
người khác cho hạnh phúc lúc bắt đầu, nhưng bất hạnh là ở cuối.
Cho nên, với
tôi, việc bị ném về bản thân mình bắt đầu cho cuộc hành trình hướng tới tâm
linh. Cách thức chúng ta trở nên bị ném lại theo cách này là vấn đề khác. Cuộc
sống tạo ra nhiều cơ hội để được ném trở lại chính mình. Nhưng chúng ta càng
thông minh, chúng ta càng nhanh chóng trong việc giải thoát bản thân mình khỏi
cơ hội như vậy. Vào những khoảnh khắc như vậy chúng ta đi ra khỏi bản thân
mình.
Nếu vợ tôi chết,
tôi ngay lập tức đi tìm, và thế rồi tôi cưới vợ khác. Nếu bạn tôi bị mất, tôi bắt
đầu tìm bạn khác. Tôi không thể để bất kì lỗ hổng nào. Bằng việc lấp đầy lỗ hổng
đó, cơ hội mà tôi có để trở lại với cái ta riêng của mình bị mất trong một khoảnh
khắc, cùng với những khả năng mênh mông của nó.
Nếu tôi trở nên
quan tâm tới người khác, tôi sẽ làm mất cơ hội du hành hướng về cái ta. Tôi đã
trở thành một loại người lạ với người khác. Nói chung, chính tại độ tuổi non nớt
này mà chúng ta trở nên có quan hệ với người khác, khi chúng ta được chấp nhận
vào xã hội. Đó là độ tuổi khi chúng ta được điểm đạo, nói đại thể, bởi xã hội
muốn hấp thu chúng ta. Nhưng tôi chưa bao giờ bị điểm đạo vào xã hội. Nó chỉ
không thể xảy ra được. Bất kì khi nào tôi đi vào trong xã hội, tôi cũng đều đi
vào như một cá nhân và tôi vẫn còn xa cách và tách biệt như một hòn đảo.
Tôi không nhớ rằng
tôi đã từng trau dồi bất kì tình bạn nào, mặc dầu có nhiều người muốn là bạn
tôi. Nhiều người đã làm bạn với tôi, và họ thích thú làm bạn với tôi bởi vì
không thể làm tôi thành kẻ thù. Nhưng tôi không nhớ rằng tôi đã bao giờ đi theo
ý muốn riêng của mình với bất kì ai để làm bất kì người bạn nào. Nếu ai đó tự
ném bản thân mình vào tôi, đấy lại là vấn đề khác. Không phải là tôi chưa bao
giờ đón mừng tình bạn. Nếu ai đó làm bạn của tôi, tôi toàn tâm toàn ý đón chào
điều đó. Nhưng cho dù thế thì tôi cũng không thể nào trở thành người bạn theo
nghĩa bình thường. Tôi bao giờ cũng còn tách rời.
Nói tóm lại, thậm
chí trong khi học trong trường, tôi vẫn còn xa cách. Không thầy giáo nào, không
bạn bè cùng học nào, không với bất kì người nào khác mà tôi có thể phát triển mối
quan hệ đến mức sẽ ngập chìm tôi hay phá vỡ con người tôi như một hòn đảo. Bạn
bè tới và cũng ở lại với tôi. Tôi đã gặp nhiều người nữa; tôi có nhiều bạn bè.
Nhưng từ phía tôi đã chẳng có gì có thể làm cho tôi phụ thuộc vào họ hay sẽ gây
cho tôi nhớ tới họ.
Điều thú vị là
để ý rằng tôi không nhớ ai cả. Điều chưa bao giờ xảy ra là tôi ngồi suy nghĩ về
ai đó với cảm giác rằng nếu như tôi gặp người đó thì chắc sẽ rất thích. Nếu ai
đó gặp tôi, điều đó làm cho tôi rất sung sướng, nhưng tôi không trở nên bất hạnh
do việc không gặp ai đó. Với trạng thái vui sướng tối thượng, tôi tin rằng chỉ
cái chết của ông tôi mới là nguyên nhân. Cái chết đó đã ném tôi trở lại với bản
thân mình thường xuyên. Tôi đã không có khả năng trở lại từ trung tâm. Do tình
huống này của việc là người ngoài, người lạ, mà tôi đã thấy những chiều hướng mới
của kinh nghiệm. Chính một điều kiện là mặc dầu tôi ở giữa mọi thứ, tôi vẫn tiếp
tục vẫn còn ở ngoài.
Tôi trở thành một
vũ trụ lên chính mình. Kinh nghiệm mới này - và cũng là kinh nghiệm lạ nữa - đã
cho tôi một loại nỗi đau, mặc dầu nó là nỗi đau vui mừng. Nó cũng giống thế này:
điều mà vào thời trẻ đó tôi bắt đầu cảm thấy và kinh nghiệm thì là một loại
chín chắn và cao tuổi. Trong kinh nghiệm này không có bản ngã tham dự, nhưng
tính cá nhân vẫn có đó, và điều đó đặt tôi vào một số tình huống bối rối.
Chẳng hạn, tôi
không thể nào chấp nhận được bất kì ai làm thầy giáo của mình mà qua đó tôi bao
giờ cũng sẵn sàng là học trò. Nhưng tôi đã không tìm thấy ai mà tôi có thể gọi
là thầy mình. Mọi người tôi tìm thấy đều quá dính líu vào với cuộc sống. Không
người nào chưa thấy cái chết lại có thể trở thành thầy giáo của tôi. Tôi muốn
kính trọng, nhưng tôi không thể kính trọng được. Tôi có thể kính trọng dòng
sông, núi non và thậm chí tảng đá, nhưng không kính trọng con người. Điều này
là một tình huống rất lúng túng, và nó đặt tôi vào khó khăn lớn.
Tôi đã không gặp
những thầy giáo như vậy mà tôi có thể kính trọng một cách tự phát, bởi vì tôi
chưa bao giờ cảm thấy rằng đã có bất kì cái gì mà bất kì ai biết về nó lại tuyệt
đối đúng, mà không có nó thì cuộc sống chẳng thể có ý nghĩa gì. Nhiều lần tôi
đã cảm thấy rằng nhiều thầy giáo khác nhau đang nói và làm những điều có vẻ
ngây thơ - mà thậm chí tôi, vào độ tuổi đó, cũng sẽ không nói hay làm. Do đó,
tôi chưa bao giờ cảm thấy rằng tôi là đứa trẻ nhỏ và rằng tôi nên vẫn còn dưới
sự bảo hộ và hướng dẫn của ai đó. Không phải là tôi đã không đi tới bất kì ai:
tôi đã đi tới nhiều người, nhưng tôi bao giờ cũng quay trở về với đôi bàn tay
trắng và cảm thấy rằng mọi điều đã được truyền thì tôi cũng đã biết. Chẳng có
gì có thể được học từ họ cả.
Do đó, một khó
khăn nảy sinh trong đó nhiều lần người khác cảm thấy tôi rất ích kỉ. Điều đó là
tự nhiên đối với họ để cảm thấy theo cách đó bởi vì tôi đã không thể nào kính
trọng và tôn kính bất kì ai hay vâng theo mệnh lệnh của bất kì ai. Mọi người đều
cảm thấy rằng tôi là người trơ tráo và chuyên gây nổi loạn. Cho tới một tuổi đặc
biệt nào đó, với các thầy giáo của mình, với người lớn của và với mọi người,
tôi đã từng là người bất lịch sự, kẻ nổi loạn, và kẻ ích kỉ, và họ không hi vọng
rằng bao giờ tôi sẽ thành hữu dụng gì cho bất kì ai trong cuộc sống này.
Trong bất kì
cái gì họ đã đặt niềm tin đơn giản, tôi cũng đều không thể nào đặt bất kì niềm
tin nào hết cả, và cái mà họ chẳng bao giờ hoài nghi, tôi bao giờ cũng hoài
nghi. Với bất kì cái gì họ bao giờ cũng đứng cúi đầu trong tư thế pranam, tôi
thậm chí không thể khoanh tay lại. Tôi chưa bao giờ cảm thấy phải làm như vậy cả.
Tôi chưa bao giờ cố gắng để tự lừa dối mình, mà tôi cũng không học bất kì đạo đức
giả nào. Nếu tôi không có tin cậy, thì nó là vậy: tôi chẳng thể đừng được điều
đó, tôi đã không cố gắng để biểu lộ bất kì cái gì mà tôi đã không tin là đúng.
Do đó, điều này
tạo ra một số khó khăn, nhưng điều đó cũng có ưu điểm của nó. Tôi đã bị ném lại
bản thân mình từ hướng khác nữa, bởi vì tôi chưa bao giờ tin hay cảm thấy rằng
chân lí lại có thể được học từ họ. Chỉ có mỗi một cách học - học chỉ từ chính bản
thân mình. Do đó tôi chưa bao giờ biết tới bất kì ai làm guru của mình. Tôi là
guru của mình và là đệ tử nữa. Nếu tôi không thể theo được bất kì ai một cách
mù quáng, phương án duy nhất còn lại là tìm kiếm theo cách riêng của mình.
Không có ai chỉ cho tôi con đường mà tôi có thể theo. Tôi phải tự mình bước lấy.
Kết quả giá trị
nhất của điều này là ở chỗ tôi phải lát con đường riêng của mình, đi theo suy
xét của riêng mình, và trong mọi vấn đề phải ra quyết định riêng của mình.
Không có vấn đề về việc nhận sự giúp đỡ của bất kì ai. Việc cứ bị ném đi ném lại
vào bản thân mình đã tỏ ra rất có giá trị.
Điều này không
có nghĩa là tôi không tin cậy vào mọi người hay không có nghĩa là tôi biểu lộ bất
kì sự khinh thường hay bất kính với bất kì ai. Tôi đơn giản không thể kính trọng
bất kì ai, và kết quả tự nhiên của mọi điều này là ở chỗ hoài nghi của tôi đã
trở thành ngày một mạnh hơn. Tôi hoài nghi mọi điều.
Thái độ này
cũng đã trở thành hữu dụng khi tôi bắt đầu đọc và viết. Dù tôi nghiên cứu Gita,
Koran, Kinh Thánh hay dù tôi nghiên cứu Phật hay Mahavira, bản năng hoài nghi
đó bao giờ cũng đi cùng tôi. Chưa bao giờ xảy ra là tôi sẽ giữ Krishna trên cao
một chút với các thần khác và giết chết mọi hoài nghi của mình. Hoài nghi bao
giờ cũng còn lại với tôi. Do đó, không cuồng tín nào, không mù quáng nào, không
đi theo hay sùng bái với chỉ một tôn giáo đặc biệt nào có thể phát sinh.
Kết quả tối cao
của tất cả những điều này là ở chỗ tôi vẫn còn lại không có bất kì kết luận
nào, đầy những câu hỏi và nhiều câu hỏi và hoài nghi. Không có câu trả lời
chung cuộc về mọi thứ. Bất kì câu trả lời nào có đó đều thuộc về người khác,
còn tôi đã không thể nào tin cậy vào câu trả lời của bất kì ai được. Câu trả lời
của người khác chỉ làm mỗi một điều với tôi, và đó là cho phát sinh ra thêm mười
câu hỏi. Không câu trả lời của bất kì ai có thể trở thành của tôi được.
Cho nên từ
chính hoàn cảnh đầu tiên này đã là nguy hiểm, bởi vì để sống và không có mục
tiêu nào là rất bất an. Tôi thậm chí đã không chắc được về cái chỉ ở một li
phía trước, bởi vì điều đó tôi có thể đi tới biết chỉ từ người khác. Về con đường
đi tới chỗ người ta đã du hành, người ta có thể biết một cách chắc chắn, nhưng
về cái nằm ở phía trước trên con đường mà người ta chưa du hành qua, người ta
chỉ có thể biết được từ người khác. Do đó, với tôi không có con đường rõ ràng.
Nó tất cả đều là bóng tối. Mọi bước tiếp với tôi đều trong bóng tối - vô mục
tiêu và mơ hồ.
Hoàn cảnh của
tôi đầy những căng thẳng, bất an và nguy hiểm. Mọi họ hàng và người thân của
tôi đều nghĩ rằng tôi là kẻ nổi loạn và người dấy loạn bởi vì hoàn cảnh này. Dần
dần mọi người bắt đầu nghĩ rằng tôi có thể trở thành điên, đấy là tình huống.
Trong mọi vấn đề
nhỏ bé đều có hoài nghi và chẳng cái gì khác ngoài ngoài nghi. Chỉ toàn câu hỏi
và câu hỏi là còn lại mà không có câu trả lời gì. Theo một khía cạnh nào đó thì
tôi gần như điên. Bản thân tôi cũng sợ rằng bất kì lúc nào tôi cũng có thể trở
thành điên. Tôi đã không thể ngủ được vào ban đêm.
Suốt đêm và
ngày, toàn câu hỏi và câu hỏi lượn lờ quanh tôi. Không có câu trả lời cho bất
kì câu hỏi nào. Tôi đã trong biển khơi, nói đại thể, mà không có bất kì con
thuyền hay bến bờ ở đâu cả. Bất kì con thuyền nào mà có đó, tự tôi đã nhấn chìm
hay từ chối rồi. Có nhiều thuyền và nhiều thuỷ thủ, nhưng bản thân tôi đã từ chối
bước vào thuyền của bất kì ai. Tôi đã cảm thấy rằng tốt hơn cả là cứ để mình chết
chìm còn hơn là bước vào thuyền của ai đó khác. Nếu đây là nơi cuộc sống định
đưa tôi tới, để làm chìm bản thân tôi, tôi cảm thấy rằng việc chìm này nên được
chấp nhận.
Hoàn cảnh của
tôi là hoàn cảnh của bóng tối hoàn toàn. Cứ dường như là tôi đã rơi vào trong
cái giếng đen tối sâu thẳm. Trong những ngày đó tôi đã nhiều lần mơ rằng tôi bị
rơi và rơi mãi và đi ngày càng sâu hơn vào trong cái giếng không đáy. Và nhiều
lần, tôi tỉnh dậy khỏi giấc mơ toát hết mồ hôi, ướt dầm dề, bởi vì việc rơi là
vô tận mà không có bất kì mặt đất hay chỗ nào để tôi dừng chân.
Ngoại trừ bóng
tối và việc rơi đó, chẳng cái gì còn lại cả, nhưng dần dần tôi chấp nhận ngay cả
hoàn cảnh đó. Nhiều lần tôi cảm thấy rằng tôi có thể đã đồng ý với ai đó, tôi
có thể đã giữ lấy cái gì đó, tôi có thể đã chấp nhận câu trả lời nào đó. Nhưng
điều này đã không phù hợp với bản tính của tôi. Tôi chưa bao giờ có khả năng chấp
nhận ý nghĩ của bất kì ai khác.
Điều không
tránh khỏi, việc xảy ra đến mức không còn chỗ nào bên trong tôi cho bất kì ý
nghĩ nào. Bây giờ tôi hiểu rằng tất cả mọi câu trả lời đều chẳng là gì ngoài ý
nghĩ. Nếu chỉ có câu hỏi, thế thì một người có thể trở thành vô ý nghĩ.
Một kết luận là
một ý nghĩ. Nếu không có kết luận, thế thì tự động chân không được tạo ra. Tôi
đã không biết tới điều này vào lúc đó, nhưng một loại trống rỗng, cái hư không,
đã tới theo cách của nó. Nhiều câu hỏi cứ xoay vòng mãi. Nhưng bởi vì không có
câu trả lời nên chúng cứ rơi rụng đi đến cạn kiệt, nói đại thể, và chết. Tôi đã
không nhận được câu trả lời, nhưng câu hỏi cứ bị phá huỷ đi.
Rồi một hôm
hoàn cảnh vô câu hỏi tới. Không phải là tôi đã nhận được câu trả lời - không.
Thay vì thế, tất cả mọi câu hỏi đều chỉ rơi rụng đi và hư không lớn lao được tạo
ra. Đây là một tình huống bùng nổ. Việc sống trong hoàn cảnh đó cũng gần như việc
chết. Và thế rồi con người này chết đi, người đã từng cứ hỏi các câu hỏi mãi.
Sau kinh nghiệm đó về hư không, tôi chẳng hỏi câu hỏi nào nữa. Mọi vấn đề mà về
chúng những câu hỏi có thể được hỏi đều trở thành không tồn tại. Trước đây, đã
chỉ có việc hỏi và việc hỏi. Từ đó về sau, chẳng cái gì giống như việc hỏi là
còn lại.
Bây giờ tôi chẳng
có câu hỏi nào cũng chẳng có câu trả lời nào. Nếu ai đó nêu ra câu hỏi, câu trả
lời tới từ hư không bên trong tôi là câu trả lời. Tôi không thể nói rằng câu trả
lời này là của tôi được bởi vì tôi chưa bao giờ có bất kì ý nghĩ nào trước về
nó cả. Câu trả lời là không sẵn sàng có trước. Tôi nữa cũng nghe thấy câu trả lời
đó lần đầu tiên khi thính giả của tôi nghe thấy nó. Cũng hệt như người đó nghe
thấy nó lần đầu tiên thì tôi cũng vậy. Không phải là tôi là diễn giả còn người
đó là thính giả, cũng không phải là tôi là người cho còn người đó là người nhận.
Câu trả lời đã tới, và cả hai chúng tôi đều là người nghe và người nhận.
Do đó, nếu câu
trả lời của tôi ngày mai có khác với điều nó được nói ngày hôm nay, tôi không
chịu trách nhiệm cho điều đó bởi vì tôi đã không cho câu trả lời chút nào. Cũng
hư không mà từ đó nó đã tới mới chịu trách nhiệm cho việc thay đổi nó. Tôi bất
lực. Do đó, bạn sẽ thấy rằng tôi rất không nhất quán. Tôi có thể nhất quán chỉ
nếu cái "tôi" đang trả lời. Nếu có bất kì cái gì không nhất quán, đấy
là do hư không đó bên trong tôi. Tôi không có tri thức về nó. Bất kì câu trả lời
nào tới cũng không do tôi đưa ra. Từ kinh nghiệm đó, tôi đã không hỏi bất kì
câu hỏi nào, mà tôi cũng không tìm kiếm bất kì câu trả lời nào. Trong bùng nổ
đó, con người cũ của những năm trước chết đi. Con người mới này là hoàn toàn mới.
Bạn đã hỏi tôi
liệu có bất kì điểm rẽ ngoặt nào không. Không có điểm rẽ ngoặt, nhưng có cái chết.
Điều được ngụ ý bởi việc này là ở chỗ người đã bước đi trên con đường này vẫn
còn chưa lấy bất kì ngả rẽ nào. Thay vì thế, người đó chết và không còn nữa.
Cái hiện hữu là con người mới hoàn toàn. Do đó, câu hỏi về việc rẽ ngoặt trở lại
là không nảy sinh. Không có người nào đã lấy bất kì lối rẽ nào. Nếu như có chuyện
đó, thế thì sẽ có khả năng quay trở lại nữa. Nhưng con người cũ không có đó. Chẳng
hạn, tại một trăm độ nước biến thành hơi. Nước không còn là nước nữa; nó là cái
gì đó khác, cái gì đó mới.
Bây giờ tôi
không nghĩ từ phía tôi. Nếu ai đó hỏi điều gì đó, cũng hệt như bạn đã hỏi, tôi nói.
Tôi thậm chí không nghĩ; tôi chỉ nói trực tiếp. Khi mà kí ức đi vào, tại đó tôi
cũng không nghĩ rằng nó là của tôi. Dường như là nó thuộc vào ai đó khác. Điều
tôi ngụ ý là ở chỗ những điều mà tôi đang nói với bạn đã xảy ra trong thời kì
trước sự bùng nổ, không phải là của tôi; thậm chí chúng dường như thuộc vào ai
đó khác. Cũng dường như chúng đơn giản được tôi nghe hay đọc trong cuốn tiểu
thuyết nào đó hay xem trong vở kịch nào đó ở đâu đó.
Tại đây, biết
bao nhiêu người yêu cầu tôi viết tự truyện về mình. Điều đó là rất khó bởi vì
người mà tôi sẽ viết không phải là tôi. Bất kì cái gì tôi đang là bây giờ đều
không có câu chuyện. Không có câu chuyện sau khi bùng nổ; không có biến cố nào
sau nó. Mọi biến cố đều ở trước sự bùng nổ. Sau bùng nổ thì chỉ có hư không. Bất
kì cái gì trước đó đều không phải là tôi hay của tôi.
Khi một người
viết về bản thân mình, đấy là tự truyện; khi một người viết về ai đó khác, đấy
là tiểu sử. Nếu tôi viết tiểu sử, nó sẽ không phải là của tôi. Nó không thể là
tự truyện được bởi vì cái "tôi" không còn đó nữa. Nó có thể là tiểu sử
của một người mà tôi có lần đã biết, nhưng người đó bây giờ không còn nữa. Nó
có thể là về người mà tôi đã có thời là người đó, nhưng người đó bây giờ đã dừng
hiện hữu. Cũng vậy, rất có thể viết về ai đó mà tôi đã biết hay đã nghe, người
tôi đã từng thấy, nhưng người đó nay đã chết.
Tôi chưa bao giờ
biết rằng các biến cố này đã xảy ra thiết lập nên tìm kiếm tâm linh. Tôi đi tới
biết chỉ về sau điều đã đi tới là "tri thức tâm linh." Nhưng chân lí
lại ở chỗ những người đã biết tới tôi từ thời còn thơ ấu sẽ chẳng bao giờ tin
được rằng tôi và tôn giáo có thể đi đôi với nhau. Điều đó vượt ra ngoài trông đợi
của họ bởi vì điều họ gọi hay biết là tôn giáo thì tôi bao giờ cũng đấu tranh
chống lại.
Điều họ gọi là tôn
thờ là vô nghĩa nhiều thế đối với tôi. Điều họ gọi là sannyasin chẳng là gì đối
với tôi ngoài kẻ đào tẩu. Điều họ gọi là kinh sách, mà họ vẫn thường cúi lạy
trong tôn thờ, chỉ là những sách tầm thường với tôi để tôi đặt chân nghỉ. Bất
kì điều gì họ khẳng định như bên ngoài việc hoài nghi, tôi lôi vào trong không
chắc chắn và ngờ vực. Thượng đế của họ, linh hồn của họ và cứu rỗi của họ tất cả
đều là trò đùa và trò vui với tôi.
Cái nghiêm chỉnh
của họ với tôi là trò trẻ con. Khi tôi thấy họ ngồi hai tay khoanh trước Thượng
đế của họ, tôi cười to và làm rối loạn họ. Tất cả những điều này với tôi trẻ
con đến mức họ không bao giờ có thể hình dung ra nổi rằng tôi, với tất cả mọi
người, có thể trở thành mang tính tôn giáo.
Nếu những người
đã biết tôi trong những ngày trước bùng nổ này và những người đã chết đi mà sống
lại, và những người mà tôi từ lâu đã không gặp, lại tới gặp tôi hôm nay, họ sẽ
không thể nào thậm chí nhận ra cái ta hiện tại của tôi, mà họ cũng không có khả
năng tưởng tượng rằng tôi có thể là cùng con người mà họ đã biết.
Họ có thể chẳng
bao giờ tin được vào điều đó, bởi vì bất kì cái gì họ đã tin là tôn giáo, tôi
đã tin là bất kì cái gì không phải là tôn giáo. Trong tâm trí họ, tôi là kẻ vô
thần, và một người hoàn toàn khác. Với các thành viên trong gia đình tôi, bạn
bè tôi, họ hàng tôi và người cùng cộng tác, tôi là kẻ vô thần lớn. Do đó, những
người bỗng nhiên gặp tôi hôm nay, sau một quãng thời gian hai mươi hay hai mươi
nhăm năm, sẽ bị sốc cho cả đời mình. Chuyện đã xảy ra rằng những người đã trở
thành vô thần trong số bạn bè tôi, hay bởi vì tôi, đều lúng túng bởi vì họ tất
cả vẫn còn là vô thần.
Gần đây tôi đi
tới một làng nơi tôi gặp một người đã trở thành người vô thần bởi vì tôi. Người
đó vẫn còn là người vô thần, và người đó trở nên rất kinh hoàng. Người đó nói rằng
điều tôi đã nói với người đó từ hồi ấy, người đó vẫn tiếp tục tin là đúng cho tới
tận bây giờ. Cho nên tôi chẳng có ý tưởng rằng điều tôi đang làm sẽ bao giờ đưa
tôi vào chứng ngộ.
Theo tôi thì
người ta không thể đi vào trong nó bằng việc biết nó trước. Nó là cái gì đó
không biết. Làm sao người ta có thể biết địa chỉ của nó được? Nó không phải là
một nơi đặc biệt để bằng việc biết địa chỉ của nó, người ta có thể đạt tới nó
được. Người ấn định địa chỉ sẽ là người phi tôn giáo. Làm sao người ta có thể
làm điều đó mà không biết nó được? Bất kì cái gì mà tâm trí phi tôn giáo làm
cũng sẽ là phi tôn giáo. Do đó, người ta không thể làm cho nó thành mục đích,
mà người ta cũng không thể nào đạt tới nó một cách có chủ ý được.
Vâng, có thể xảy
ra là ai đó sống theo cách phi tôn giáo có thể chỉ trở nên mệt mỏi về nó, và
tính phi tôn giáo của người đó có thể bị phá vỡ. Thế thì tính tôn giáo sẽ không
tới, nhưng tính phi tôn giáo của người đó đơn giản sẽ tan vỡ. Tính phi tôn giáo
của người đó sẽ tan tành và biến mất hoàn toàn. Rồi một hôm người đó bỗng nhiên
thấy rằng mình đã trở thành trần trụi. Quần áo của tính phi tôn giáo sẽ bị vứt
bỏ mất và với ngạc nhiên của mình người đó sẽ than, 'Aha! đây là cái gì đó mới!
Điều vừa xảy ra là kinh nghiệm tôn giáo!"
Vậy, kinh nghiệm
tôn giáo là việc xảy ra, cái gì đó là sự xuất hiện không kế hoạch trước, không
phải là thành tựu, không phải được lập kế hoạch trước, sự hoàn thành được đạt tới
dần dần. Không ai có thể đạt tới đó từng bước một dường như nó là trên một cái
thang. Nhưng từ việc sống - và sống một cách phi tôn giáo - tính phi tôn giáo
đó có thể đơn giản tan tành. Tôi nói rằng tri thức tối thượng không thể là mục
đích, mà dốt nát và tri thức giả tạo có thể bị làm tan rã. Và khoảnh khắc dốt
nát tan rã, cái dư lại - cái còn lại - là tri thức tối thượng.
Về mọi thứ quan
điểm của tôi là tương tự. Không người bạo hành nào có thể trở thành bất bạo
hành. Làm sao người bạo hành có thể trở thành bất bạo hành được? Bất kì điều gì
người đó làm cũng sẽ là bạo hành. Trong nỗ lực để là bất bạo hành, người đó sẽ
trở thành bạo hành. Người đó là bạo hành, và nếu người đó làm ra vẻ bất bạo
hành, người đó sẽ vẫn còn hoàn toàn bạo hành bên trong. Người đó sẽ dùng bạo
hành để trở thành bất bạo hành.
Nhưng điều có
thể là ở chỗ một ngày nào đó một người có thể trở nên mệt mỏi với bạo hành. Người
đầy những căng thẳng - mòn mỏi vì căng thẳng và bị kiệt sức từ đau khổ của mình
- có thể đầy những bất hạnh không thể nào chịu đựng nổi đến mức người đó sẽ lấy
cú nhảy ra khỏi bạo hành. Cũng giống như là đột nhiên nhảy khi thấy rắn độc đi
ngang qua đường hay giống như chạy ra khỏi nhà đã bắt lửa. Người ta có thể trở
thành bạo hành thế, bản thân bạo hành có thể sinh ra nhiều đau đớn và đau khổ đến
mức người ta có thể đạt tới một điểm tại đó người đó không bao giờ có thể trở
thành bạo hành được nữa. Một cái gì đó bên trong có thể vỡ ra và tan tành, và
người ta có thể thấy rằng bây giờ mình đã trở thành bất bạo hành.
Vậy, trở thành
bất bạo hành là việc xảy ra, không phải là tiến trình hay thành tựu dần dần mà
tới đó người ta có thể leo từng bước một. Ai sẽ leo? Người bạo hành đó sao? Người
đó sẽ leo chỉ với bạo hành của mình; người đó không thể nào đạt tới bất bạo
hành được. Dù tên ăn trộm có thể lấy bao nhiêu bước cũng chẳng thành vấn đề,
các bước này sẽ chỉ là những bước của tên ăn trộm: chúng không thể dẫn người đó
tới không ăn trộm được. Dù kẻ nói dối có lấy bao nhiêu bước cũng chẳng thành vấn
đề, chúng sẽ chỉ là những bước của kẻ nói dối: người đó không bao giờ có thể đạt
tới bất kì chân lí nào. Nhưng nếu dối trá hoàn toàn bị vứt bỏ, thế thì có chỗ
người như vậy có thể tìm thấy bản thân mình sẽ là chân lí.
Cho nên cái có
ý nghĩa trong cuộc sống này, cái tối thượng, không thể nào được đạt tới bằng nỗ
lực của chúng ta. Do đó tôi không biết điều gì xảy ra cho tới khi nó xảy ra, và
cho dù thế thì tôi cũng vẫn không hiểu nó có là việc xảy ra tôn giáo hay không.
Làm sao tôi có thể hiểu nổi? Nhận ra và hiểu biết bao giờ cũng là điều được biết
tới trước đây. Khi bạn tới, tôi nhận ra bạn là Tandonji, nhưng tôi có thể làm
như vậy bởi vì tôi đã biết bạn hôm qua. Nếu như tôi đã không biết bạn trước
đây, và nếu chúng ta đã gặp lần đầu tiên, việc gặp gỡ của chúng ta là làm quen,
không phải là nhận ra.
Do đó, tôi
không thể nhận ra điều xảy ra đó khi nó bùng nổ lên tôi. Điều duy nhất còn lại
là ở chỗ cái gì đó mới đã xảy ra mà lại chưa hề được biết trước đây. Điều bị bỏ
lại là điều này, rằng điều đã từng có đó bây giờ không còn nữa còn điều bây giờ
đã xảy ra lại không có đó trước đây.
Phải mất thời
gian để làm quen. Chính việc làm quen được biết tới chỉ bằng việc hỏi, "Bạn
là ai và bạn là gì?" Việc làm quen này là rất lạ, bởi vì nó chỉ là với bản
thân tôi. Chẳng cái gì đã tới tôi từ bên ngoài mà tôi có thể nhận ra. Thay vì
thế, cái gì đó đã rơi rụng khỏi tôi. Cái còn lại là cái không biết, và tôi phải
trở thành quen thuộc với cái đó. Cho dù thế thì việc làm quen này sẽ chẳng bao
giờ hoàn thành cả, bởi vì mỗi ngày nó lại lấy một cái mới. Vào lúc chúng ta biết
nó, nó trở thành mới hơn nữa. Đây là cuộc hành trình vô hạn của tri thức về cái
ta. Nó là vô tận, vô thuỷ và vô hạn.
Tính tôn giáo
không phải là mục đích chết, mà là mục đích tối cao. Nó cũng giống như dòng
sông tuôn chảy: hàng ngày phong cảnh trên bờ sông thay đổi; hàng ngày hàng cây
thay đổi. Đá và núi mới được trôi qua, và trăng mới và sao mới được thấy. Bất
kì cái gì chúng ta đã biết hôm qua lại mất đi hôm nay. Trong kinh nghiệm tối
cao này, người ta không thể nào nói rằng "Tôi đã đạt tới," rằng
"Tôi đã hiểu ra," rằng "Tôi đã hoàn toàn biết cái cần biết."
Nếu ai đó nói theo ngôn ngữ đó, người đó còn chưa đạt tới chút nào. Người ta chỉ
đi vào trong kinh nghiệm đó. Người ta không đạt tới đích, bởi vì nó là vô tận.
Nếu ai đó đi vào trong biển, người đó có thể nói rằng người đó đã đi vào, rằng bờ
bị mất, nhưng người đó không bao giờ có thể nói rằng mình đã gặp biển - bởi vì
bờ mới chưa bao giờ được tìm thấy, và mọi nơi, khắp xung quanh, chỉ có biển.
Cho nên người
tôn giáo không thể viết thông điệp về việc đạt tới của mình và thành tựu của
mình. Người đó chỉ có thể nói rằng cái cũ không có đó và rằng cái bây giờ đang
xảy ra thì đang thay đổi mọi khoảnh khắc, mọi ngày. Hiểu theo nghĩa hẹp, nó là
mới và lại mới. Không thể nói nó sẽ giống cái gì vào ngày mai, bởi vì bất kì
cái gì nó đã là vào hôm qua thì không phải là cái đó vào hôm nay. Bất kì cái gì
có đó hôm nay đang dần tan rã. Việc sống vô giới hạn này luôn làm mới bản thân
nó mọi khoảnh khắc, chẳng bao giờ trở thành nhàm chán, là kinh nghiệm tôn giáo.
Và chúng ta không bao giờ có thể làm các nỗ lực để đạt tới nó, mà chúng ta cũng
không bao giờ có thể đạt tới nó đầy đủ.
Cho nên bất kì
ai nói rằng mình đã đạt tới nó, chẳng bao giờ đạt tới nó được. Nhưng người nói
rằng người đó cứ đạt tới nó mỗi ngày nhiều hơn, nhưng chẳng bao giờ đạt tới nó
một cách đầy đủ, hay người nói rằng khi người đó đạt tới nó một cách đầy đủ,
người đó sẽ nói, hay người nói rằng cái toàn thể vẫn còn chưa được đạt tới, mới
là người duy nhất đã thực sự đạt tới. Chân lí là sao cho cái gì đó bao giờ cũng
vẫn cứ còn lại để được biết, và vậy mà người ta cảm thấy rằng nó bao giờ cũng
được biết. Ngôn ngữ chúng ta, do đó, diễn đạt mọi thứ một cách sai sót. Những
người đi qua cuộc sống với mục đích - và nhiều người có thể làm như vậy - chưa
bao giờ đạt tới.
Gần đây, ai đó
tới và hỏi tôi liệu người đó có thể trở thành sannyasin được không. Tôi bảo anh
ta, "Chừng nào bạn cảm thấy thích hỏi, đừng trở thành sannyasin, bởi vì thế
thì một điều là chắc chắn: tính chất sannyas đó không phải là tự phát. Tính chất
sannyas không được lấy; nó không thể được lấy. Một ngày nào đó nó sẽ tới với bạn.
Thế thì bỗng nhiên bạn sẽ hiểu rằng bạn là sannyasin và rằng bạn không còn là
cái bạn đã là." Thế rồi người đó bảo tôi rằng nhiều người đang "lấy"
tính chất sannyas.
Với tôi, bất kì
cái gì có thể được lấy bằng ý chí đều là giả. Tính tôn giáo có thể được mang là
giả; tính tôn giáo người ta cố gắng để đạt tới là giả. Cuộc sống, cái chết, hận
thù, bạo hành, bất hạnh, đau đớn và lo âu - tất cả những cái này không được
chúng ta lấy: chúng đã tới. Sống chúng một cách toàn bộ đi, và từ kinh nghiệm,
từ việc sống toàn bộ đó, siêu việt sẽ bắt đầu.
Chúng ta càng sống
đầy đủ thì chúng ta càng thấy rằng chúng ta đang đi xa hơn và ra ngoài. Nó là
cái gì đó giống thế này: một người đang chết đuối trong dòng sông. Nếu người đó
cố gắng tự cứu mình, có lẽ người đó sẽ bị chết đuối. Nếu người đó chìm, thế thì
người đó sẽ chìm hoàn toàn. Nếu người đó không cố gắng chút nào để bơi, thế thì
sau khi đạt tới đáy người đó sẽ thấy rằng mình đã bắt đầu nổi lên. Người sẵn
sàng chết chìm sẽ được cứu, còn người sợ chết chìm và người vật lộn chắc chắn sẽ
chết chìm. Người chết nổi trên nước, còn người sống chìm xuống. Kĩ năng của
thân thể người chết nằm trong sự kiện là nó không làm gì cả, và điều đó giữ cho
nó trên bề mặt của nước.
Cho nên tôi lên
trên nước giống như thân thể người chết. Tôi không làm gì cả vì nó, mà tôi cũng
không nhận biết về nơi đang đi. Tôi không biết hôm nay nơi tôi đang đi, mà cũng
không có câu hỏi nào về nơi tôi đi. Bây giờ bất kì nơi đâu tôi đi cũng đều là mục
tiêu và nơi tôi tới chính là nơi tôi đã đạt tới. Bây giờ không có tìm kiếm.
Nhưng tất cả những điều này đã không tới do bất kì lối rẽ ngoặt nào. Tức là,
tôi chưa bao giờ lấy lối rẽ, mà cũng không có bất kì biến cố nào có thể được mô
tả như biến cố mà đã đem tới bùng nổ. Nhiều biến cố giúp vào một cách tập thể -
và thế thì nó xảy ra.
Trong thế giới
này, tôn giáo đã trở thành dối trá lớn nhất, bởi vì mọi người nói rằng nó có thể
được chấp nhận. Bất kì điều gì có thể được chấp nhận đều không thể nào lớn hơn
chúng ta. Sau rốt, đấy chính là cái "tôi" sẽ chấp nhận nó, không phải
thế sao? Và nếu cái "tôi" chấp nhận nó, làm sao nó có thể lớn hơn tôi
hay vô hạn hơn tôi? Khi nó tới, chúng ta không có đó để hiểu thấu nó. Nó tới chỉ
khi chúng ta mất. Chúng ta có gọi nó là gì cũng không thành vấn đề - gọi nó là
chân lí, hay Thượng đế, hay chứng ngộ - và những khoảnh khắc của hư không như vậy,
nó đơn giản hạ xuống.
Bất kì ai đã nhận
được nó đều cảm thấy rằng nó là ân huệ của Thượng đế. Lí do cho việc nói như vậy
là ở chỗ nó đã không tới theo nỗ lực của người đó. Không phải là nó được nhận
chỉ bởi vì ân huệ của ngài, nhưng nó xuất hiện như vậy vì không có nỗ lực về phần
chúng ta.
Đó là lí do tại
sao tôi đã bắt đầu việc nói rằng chúng ta không thể tìm kiếm nó. Làm sao chúng
ta có thể tìm kiếm Thượng đế mà tên và địa chỉ chúng ta chẳng biết, người mà
chúng ta không thể nhận ra bởi vì ngài không được biết tới ở đâu đó? Làm sao
chúng ta sẽ có khả năng tìm kiếm ngài? Nếu chúng ta biết ngài và nhận ra ngài,
thế thì chẳng cần tìm kiếm. Do đó, tôi không thể nào tìm kiếm ngài được. Nhưng
nếu trong khi tìm kiếm cái "tôi" tan biến, thế thì ngài sẽ tìm thấy
tôi. Ngi biết tôi đủ rõ.
Có lẽ tôi đã được
ngài tìm thấy thậm chí bây giờ, nhưng tôi là người đang chạy đuổi và chạy đuổi
mà vẫn không mệt mỏi. Thậm chí bây giờ tôi không mệt mỏi, nhưng ngài sẽ đợi cho
tới khi tôi sụp đổ hoàn toàn trong kiệt sức. Và tại đó nơi tôi sẽ bị vứt bỏ lại
chính là lòng ngài.
Xem tiếp Chương 6 – Quay về
Mục lục