Osho –
Tín Tâm Minh – Sách về cái Không
Chương
8: Sống trong niền tin đúng
Coi chuyển động là tĩnh tại và tĩnh tại
trong chuyển động, và cả hai trạng thái của chuyển động và trạng thái của nghỉ ngơi
đều biến mất.
Khi những cái nhị nguyên đó dừng tồn
tại, bản thân cái một không thể tồn tại.
Với cái chung cuộc tối thượng này thì
không luật hay mô tả nào áp dụng được.
Với tâm trí thống nhất theo Đạo tất cả
mọi cố gắng tự định tâm đều dừng.
Hoài nghi và do dự tan biến và sống
trong niềm tin đúng là điều có thể.
Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù
túng; không cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm giữ cái gì.
Tất cả là trống rỗng, rõ ràng, tự
chói sáng, không dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ, cảm giác, tri thức và
tưởng tượng đều không có giá trị.
Coi chuyển động là tĩnh tại và tĩnh tại
trong chuyển động, và cả hai trạng thái của chuyển động và trạng thái của nghỉ
ngơi đều biến mất.
Đây là một
trong những điều bản chất nhất. Cố hiểu thật sâu sắc nhất. Tâm trí có thể thấy
chỉ một cực, còn thực tại là hai cực, hai cực đối lập nhau. Tâm trí có thể thấy
một cực đoan; trong cực đoan này thì cực đoan kia bị che kín, nhưng tâm trí
không thể hiểu thấu được nó. Và chừng nào bạn còn chưa thấy cả hai cái đối lập
cùng nhau, bạn sẽ không bao giờ có khả năng thấy điều đang hiện hữu, và bất kì
cái gì bạn thấy cũng sẽ sai, bởi vì nó sẽ là một nửa.
Nhớ lấy, chân
lí chỉ có thể là cái toàn thể. Nếu nó là một nửa, nó thậm chí còn nguy hiểm hơn
là nói dối, bởi vì một nửa chân lí mang ý nghĩa của việc đúng và nó lại không
đúng. Bạn bị nó lừa dối. Biết chân lí là biết cái toàn thể trong mọi thứ.
Chẳng hạn, bạn
thấy chuyển động, cái gì đó đang chuyển động - nhưng liệu chuyển động có thể có
không nếu thiếu cái gì đó ẩn bên trong mà không chuyển động? Chuyển động là
không thể có nếu thiếu một cái gì đó không chuyển động bên trong nó.
Bánh xe chuyển
động, nhưng trung tâm của bánh xe này vẫn còn không chuyển động; nó di chuyển
trên cái trung tâm không chuyển đó. Nếu bạn chỉ thấy bánh xe bạn mới thấy được
một nửa, và một nửa là rất nguy hiểm. Và nếu, trong tâm trí bạn, bạn làm một nửa
thành cái toàn thể, thế thì bạn đã rơi vào trong thế giới ảo tưởng của khái niệm.
Bạn yêu một người;
bạn chưa bao giờ thấy rằng ghét đang ẩn kín bên trong tình yêu của bạn. Nó có
đó; dù bạn thích nó hay không thì cũng chẳng thành vấn đề. Bất kì khi nào bạn
yêu, ghét đều hiện diện ở đó - cực đối lập - bởi vì yêu không thể tồn tại mà
không có ghét. Việc yêu của bạn không thành vấn đề. Nó là vậy.
Yêu không thể tồn
tại mà không có ghét. Bạn yêu người này và bạn ghét cũng người đó, nhưng tâm
trí chỉ có thể thấy một. Khi tâm trí thấy yêu, nó dừng thấy ghét; khi ghét tới,
khi tâm trí bám vào ghét, nó dừng thấy yêu. Và nếu bạn muốn vượt ra ngoài tâm
trí, bạn phải thấy đồng thời cả hai - cả hai cực đoan, cả hai cái đối lập.
Điều đó cũng giống
hệt như con lắc đồng hồ. Con lắc đi sang phải; tất cả những điều thấy được là ở
chỗ con lắc đang đi sang phải. Nhưng có một cái gì đó bên trong không thấy được,
và đó là cái mà trong khi con lắc đang chuyển sang phải thì nó thu được đà để
đi sang trái. Điều đó không thật là trực quan, nhưng bạn sẽ thấy ngay thôi.
Một khi đạt tới
cực điểm con lắc bắt đầu đi sang cực đối lập, nó đi sang trái. Và nó đi sang trái
tới cùng mức độ như nó đã đi sang phải. Trong khi di chuyển sang trái, lần nữa
bạn có thể bị lừa. Bạn sẽ thấy nó đang di chuyển sang trái, nhưng sâu bên trong
nó đang thu thập năng lượng để đi sang phải.
Trong khi bạn
yêu, bạn thu thập năng lượng để ghét; trong khi bạn ghét, bạn đang thu thập
năng lượng để yêu. Trong khi bạn sống bạn đang thu thập năng lượng để chết, và
khi bạn chết bạn sẽ thu thập năng lượng để được tái sinh.
Nếu bạn chỉ thấy
cuộc sống thì bạn sẽ bị lỡ. Thấy cái chết ẩn kín ở mọi nơi trong cuộc sống đi!
Và nếu bạn có thể thấy rằng cái chết đang ẩn nấp trong cuộc sống, thế thì bạn
có thể thấy điều ngược lại nữa: rằng trong cái chết cuộc sống lại được ẩn kín.
Thế thì cả hai cực biến mất. Khi bạn thấy chúng trong sự cùng nhau của chúng, một
cách đồng thời, với điều đó tâm trí bạn biến mất. Tại sao? - bởi vì tâm trí chỉ
có thể là bộ phận, nó không bao giờ có thể là toàn thể.
Bạn sẽ làm gì nếu
bạn thấy ghét ẩn trong yêu? Nếu bạn thấy yêu ẩn trong ghét, thế thì bạn sẽ chọn
cái gì? Chọn lựa sẽ trở thành không thể được, bởi vì nếu bạn thấy, “Mình chọn
yêu,” bạn cũng thấy bạn đang chọn ghét. Và làm sao một người yêu lại có thể chọn
ghét được?
Bạn có thể chọn
bởi vì ghét không rõ ràng cho bạn. Bạn đã chọn yêu, và thế thì bạn nghĩ bởi điều
ngẫu nhiên nào đó ghét đã xảy ra. Nhưng khoảnh khắc bạn chọn yêu, bạn đã chọn
ghét rồi. Khoảnh khắc bạn níu bám lấy sống, bạn đang níu bám lấy chết. Không ai
muốn chết - thế thì đừng níu bám lấy sống, bởi vì sống đang đưa tới chết.
Cuộc sống tồn tại
trong các cực còn tâm trí tồn tại trong một phần của một cực; đó là lí do tại
sao tâm trí sai. Và tâm trí cố gắng làm cho một phần thành toàn thể. Tâm trí
nói, “Mình yêu người đàn ông này hay người đàn bà này và mình đơn giản yêu
thôi. Làm sao mình có thể ghét người đàn bà này được? Khi mình yêu, thì mình
yêu; ghét là không thể có được.”
Tâm trí có vẻ
logic nhưng nó sai. Nếu bạn yêu, ghét là có thể đấy; ghét là có thể chỉ nếu bạn
yêu. Bạn không thể ghét một người mà không yêu người đó; bạn không thể làm ra kẻ
thù mà không làm người ấy trước hết là bạn của bạn. Chúng đi cùng nhau, chúng
chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Bạn nhìn vào một mặt, mặt kia bị ẩn kín đằng
sau - nhưng cái kia có đó, bao giờ cũng chờ đợi. Và bạn càng đi sang bên trái
nhiều hơn, thì bạn càng sẵn sàng đi sang bên phải nhiều hơn.
Điều gì sẽ xảy
ra nếu tâm trí có thể thấy cả hai điều cùng nhau? Tâm trí không có khả năng đó,
bởi vì thế thì toàn bộ vấn đề trở thành ngớ ngẩn thế, phi logic thế. Tâm trí có
thể sống chỉ trong một khuôn khổ logic, rõ ràng, cái đối lập bị phủ nhận. Bạn
nói, “Đây là bạn tôi và kia là kẻ thù tôi.” Bạn không bao giờ nói, “Đây là bạn
tôi và là kẻ thù tôi.” Nếu bạn nói điều đó thì mọi sự thành phi logic. Và nếu bạn
cho phép điều phi logic đi vào, chúng làm tan nát tâm trí hoàn toàn - tâm trí bị
vứt bỏ.
Khi bạn nhìn
vào cái ngớ ngẩn của cuộc sống, vào cách cuộc sống đi qua những mâu thuẫn, cách
thức cuộc sống sống qua các phía đối lập, bạn phải vứt bỏ tâm trí. Tâm trí cần
những đường biên rõ ràng mà cuộc sống thì lại không. Bạn không thể tìm ra bất
kì cái gì ngớ ngẩn hơn cuộc sống, hơn sự tồn tại. ‘Ngớ ngẩn’ là từ dành cho nó,
nếu bạn nhìn vào cả hai cực cùng nhau.
Bạn gặp gỡ - bạn
gặp gỡ chỉ để ra đi. Bạn thích một người - bạn thích một người chỉ để không
thích. Bạn hạnh phúc - bạn hạnh phúc chỉ để gieo hạt mầm bất hạnh. Bạn có thể
quan niệm được tình huống nào ngớ ngẩn hơn thế không? Nếu bạn muốn hạnh phúc, bạn
đã muốn bất hạnh rồi; bây giờ bạn sẽ trong khổ sở liên tục.
Phải làm gì? Chẳng
còn lại gì để tâm trí làm cả. Tâm trí đơn giản biến mất. Và khi tâm trí biến mất,
cuộc sống không có vẻ ngớ ngẩn nữa, thế thì cuộc sống trở thành điều bí ẩn.
Điều này phải
được hiểu, bởi vì cuộc sống có vẻ ngớ ngẩn vì tính quá logic của tâm trí; cuộc
sống hoang dại bởi vì bạn đã sống trong khu vườn nhân tạo quá lâu rồi. Bạn đi
vào trong rừng rậm và nó có vẻ hoang dại, nhưng nó có vẻ hoang dại bởi vì so
sánh. Một khi bạn hiểu rằng cuộc sống là như vậy, cuộc sống là sao cho cái đối
lập bao giờ cũng tham dự vào...
Yêu một người
và ghét sẽ tới. Làm bạn và kẻ thù được sinh ra. Hạnh phúc và đâu đó, từ cửa
sau, bất hạnh đang đi vào. Vui thích khoảnh khắc này và lập tức bạn sẽ kêu
khóc. Cười, và ngay sau cái cười là nước mắt, đang đợi để trào ra. Thế thì phải
làm gì? Chẳng có gì còn lại để làm cả. Đây là cách thức mọi sự hiện hữu.
Và Tăng Xán nói
Coi chuyển động
là tĩnh tại...
Đó là điều ông ấy
đang nói. Ông ấy đang nói khi bạn thấy điều gì đó chuyển động, nhớ lấy, một cái
gì đó bên trong là tĩnh tại. Và tất cả mọi chuyển động đều sẽ dẫn tới tĩnh tại.
Nó sẽ đi đâu? Bạn chạy, bạn bước, bạn di chuyển. Bạn đang đi đâu? - chỉ nghỉ ở
đâu đó, chỉ ngồi ở đâu đó. Bạn đang chạy chỉ để nghỉ ở đâu đó. Cho nên việc chạy
đạt tới nghỉ ngơi, chuyển tới trạng thái tĩnh tại.
Và tĩnh tại đó
đã có đấy rồi. Bạn chạy và thấy - cái gì đó bên trong bạn không chạy, nó không
thể chạy được. Tâm thức bạn vẫn còn tĩnh tại. Bạn có thể đi khắp thế giới; cái
gì đó bên trong bạn không bao giờ di chuyển, không thể di chuyển - và tất cả
chuyển động đều phụ thuộc vào cái trung tâm bất di bất dịch ấy. Bạn tham dự vào
mọi loại tình huống, xúc động, nhưng cái gì đó trong bạn vẫn còn không động tới,
không dính líu tới. Và toàn thể cuộc sống dính líu thành có thể bởi vì cái yếu
tố không dính líu đó.
Bạn yêu một người,
bạn yêu nhiều hết sức mình, nhưng sâu bên dưới một cái gì đó vẫn còn cách biệt,
tách rời. Nó phải là như vậy, nếu không thì bạn sẽ bị mất. Một cái gì đó vẫn
còn tách biệt thậm chí cả trong gắn bó. Và gắn bó càng lớn, thì cái cảm giác về
điểm tách biệt đó bên trong bạn sẽ càng lớn, bởi vì không có cái đối lập thì chẳng
cái gì có thể tồn tại cả. Mọi thứ tồn tại theo cách thức đối lập.
Coi chuyển động
là tĩnh tại và tĩnh tại trong chuyển động...
Và khi bạn thấy
điều gì đó tĩnh tại, đừng bị lừa - nó là tĩnh tại nhưng một cái gì đó đã chuyển
động. Bây giờ các nhà khoa học nói rằng mọi thứ đều chuyển động, thậm chí cả bức
tường tĩnh tại này, tảng đá này. Chúng đang chuyển động nhanh đến mức, các
nguyên tử của chúng đang chuyển động nhanh đến mức bạn không thể thấy sự chuyển
động đó. Đó là lí do tại sao chúng có vẻ tĩnh tại.
Chuyển động này
là nhanh thế, cùng tốc độ như tia sáng chuyển động. Tia sáng chuyển động ba
trăm nghìn ki lô mét một giây. Đây là chuyển động của nguyên tử. Nó di chuyển
theo đường tròn. Nó đi nhanh điên khùng, nó có vẻ tĩnh.
Chẳng cái gì
tĩnh tại cả và chẳng cái gì lại hoàn toàn chuyển động cả. Mọi thứ đều là cả hai
- cái gì đó chuyển động, cái gì đó tĩnh tại - và tĩnh tại vẫn còn là cơ sở cho
tất cả mọi chuyển động. Khi bạn thấy điều gì đó tĩnh tại, đừng bị lừa; nhìn vào
bên trong và ở đâu đó bạn sẽ thấy chuyển động đã xảy ra. Khi bạn thấy điều gì
đó chuyển động, tìm cái tĩnh tại đi. Bạn bao giờ cũng sẽ thấy nó ở đó, điều đó
là hoàn toàn chắc chắn, bởi vì một cực đoan không thể tồn tại một mình.
Nếu tôi đưa cho
bạn một chiếc gậy và bảo bạn rằng chiếc gậy này chỉ có một đầu, không có đầu
kia, bạn sẽ nói điều đó là không thể được. Nếu nó có đầu này thế thì đầu kia phải
có đó, có thể bị che kín, nhưng không thể nào chiếc gậy chỉ có một đầu được. Đầu
kia phải có đó; nếu có cái bắt đầu, cái kết thúc phải có đó.
Đây là điều Phật
nói mãi, “Nếu ông được sinh ra, cái chết phải có đó. Mọi thứ có sinh đều có diệt."
Bởi vì một đầu là sự bắt đầu, thế thì đầu kia ở đâu, đầu kia của chiếc gậy? Nó
phải có đó. Mọi thứ sinh ra đều phải chết đi, mọi thứ được làm ra sẽ tan ra, mọi
thứ được gắn lại sẽ rời ra, mọi gặp gỡ đều là việc ra đi, mọi việc tới đều ra
việc đi.
Nhìn vào cả hai
đồng thời và ngay lập tức tâm trí biến mất. Bạn có thể hơi bị choáng, bởi vì
tâm trí đã sống với phân ranh giới logic, sáng tỏ logic. Khi tất cả mọi sự phân
biệt đều biến mất, thậm chí cả cái đối lập bị che giấu trong mọi vật, tâm trí cảm
thấy choáng.
Cho phép cái
choáng đó, để cho nó xảy ra đi. Chẳng bao lâu cái choáng đó sẽ tan đi và bạn sẽ
lắng đọng vào trong trí huệ mới, hiểu biết mới, cái nhìn mới về thực tại.
Cái nhìn mới
này về thực tại là cái toàn thể, và với cái toàn thể này bạn là cái trống rỗng.
Không có ý kiến gì về nó; bây giờ bạn biết mọi ý kiến đều là sai.
Ai đó hỏi
Mahavira, “Có Thượng đế không?”
Và Mahavira
nói, “Có, không. Có và không cả hai.”
Người này phân
vân. Người đó nói, “Tôi không theo được. Hoặc là thầy nói có hoặc là thầy nói
không, nhưng đừng nói mọi thứ cùng nhau.”
Mahavira nói,
“Chỉ có ba quan điểm. Nếu ông muốn nghe cái toàn thể, tôi có bẩy quan điểm về mọi
thứ.”
Và Mahavira có
thật! Trước hết ông ấy nói có - một quan điểm - không phải là chân lí, một khía
cạnh. Thế rồi ông ấy nói không - không phải chân lí, một khía cạnh khác. Thế rồi
ông ấy nói cả hai có và không - khía cạnh thứ ba. Thế rồi ông ấy nói có và
không, nhưng không cả hai - khía cạnh thứ tư. Thế rồi ông ấy nói có cộng với cả
hai có và không - khía cạnh thứ năm. Không có cả hai có và không - khía cạnh thứ
sáu. Không có và không có cả hai - khía cạnh thứ bẩy.
Ông ấy nói bẩy
là các khía cạnh và thế thì sự việc là cái toàn thể. Và ông ấy cũng phải, nhưng
tâm trí cảm thấy choáng. Nhưng đấy là vấn đề của bạn, không phải vấn đề của ông
ấy. Ông ấy cũng phải, bởi vì ông ấy nói bất kì khi nào bạn nói có, đấy mới là một
nửa. Theo một nghĩa nào đó sự việc hiện hữu, nhưng theo một nghĩa nào đó thì nó
đã trên con đường thành không tồn tại rồi.
Bạn nói, “Đứa
trẻ này, nó sống hay chết?” Nó đang sống, đúng. Nhưng Mahavira nói nó đã trên
con đường chết. Nó sẽ chết và cái chết là chắc chắn, cho nên để cho điều đó được
hàm ý tới trong phát biểu này; nếu không thì phát biểu này sẽ chỉ là một nửa và
không đúng.
Cho nên
Mahavira nói, “Đúng, theo một nghĩa nào đó thì đứa trẻ này đang sống - và
không, theo một nghĩa nào đó, bởi vì đứa trẻ này đang sắp chết” - mà cũng không
chỉ sắp chết đâu, trong thực tế nó đã chết rồi bởi vì nó sống. Cái chết bị ẩn ở
đó, đó là một phần của đứa bé. Và đó là lí do tại sao ông ấy lại nói tốt hơn cả
là nên nói điều thứ ba: đứa bé là cả hai.
Nhưng làm sao một
đứa trẻ lại có thể vừa chết vừa sống cả hai được? - bởi vì cái chết phủ định cuộc
sống, cuộc sống phủ định cái chết. Đó là lí do tại sao Mahavira nói để có quan
điểm thứ tư: nó không phải là cả hai. Đây là cách ông ấy nói ra, và đến lúc ông
ấy kết thúc phát biểu bẩy phần của mình, bạn thậm chí còn phân vân hơn là trước
khi hỏi ông ấy. Nhưng đấy là vấn đề của bạn. Ông ấy nói vứt bỏ tâm trí đi, bởi
vì tâm trí không thể nào nhìn vào cái toàn thể được, nó chỉ có thể nhìn vào các
khía cạnh.
Bạn đã bao giờ
quan sát chưa? Nếu tôi đưa cho bạn một hòn đá cuội nhỏ, bạn có thể thấy được
toàn bộ hòn đá nhỏ này không? Bất kì khi nào bạn nhìn bạn chỉ thấy một mặt, mặt
khác bị ẩn kín. Nếu bạn nhìn vào mặt khác thế thì phần thứ nhất lại bị ẩn kín.
Thậm chí với một hòn đá nhỏ thế, bạn có thể đặt trên lòng bàn tay mình, bạn
cũng không thể nào thấy được cái toàn thể.
Tâm trí không
thể thấy được bất kì cái toàn thể nào. Tôi đang nhìn vào bạn nhưng lưng bạn bị
che kín. Bạn đang nhìn vào tôi; bạn thấy mặt tôi nhưng không thấy lưng tôi. Và
bạn chưa bao giờ thấy cái toàn thể của tôi, bởi vì khi bạn thấy lưng tôi thì bạn
sẽ không thấy mặt tôi.
Không có khả
năng nào cho tâm trí thấy bất kì cái gì toàn thể. Nó chỉ có thể thấy một nửa, nửa
kia được suy ra. Đó là suy diễn, được cho là dĩ nhiên phải có đó, bởi vì làm sao
có thể có mặt mà không có lưng? Cho nên chúng ta suy diễn ra rằng lưng có thể
có đó, phải có đó.
Nhưng nếu bạn
có thể nhìn vào cả hai điều cùng nhau, thì choáng nhất định phải xảy ra. Nếu bạn
có thể chấp nhận điều đó và đi qua nó, thế thì sáng tỏ tới, thế thì tất cả các
đám mây đều biến mất. Trong cách nhẩy múa đạo Hồi toàn bộ vấn đề là làm cho tâm
trí choáng. Có nhiều cách. Mahavira đã dùng một phương tiện rất logic: logic bẩy
nhánh. Điều đó cũng hệt như cách nhẩy múa của đạo Hồi, nó làm cho bạn choáng.
Những người rất
trí thức, với họ thì phương pháp của Mahavira là rất hay. Nó đem lại sự choáng
và mọi thứ trở thành nháo nhào, và bạn không thể thực sự nói về điều gì - bạn
phải trở nên im lặng. Bất kì điều gì bạn nói ra cũng đều ngớ ngẩn và bạn phải
ngay lập tức phủ nhận nó. Và vào lúc bạn đã nói ra mọi điều thì chẳng cái gì được
nói ra cả, bởi vì mọi phát biểu đều mâu thuẫn với phát biểu khác.
Logic bẩy nhánh
này của Mahavira cũng giống hệt cách nhẩy múa Mô ha mét giáo của tâm trí, nó
làm cho bạn choáng. Cách nhẩy múa Mô ha mét giáo là phương pháp thể chất để làm
cho tâm trí choáng còn logic này là phương pháp tinh thần để làm cho tâm trí
choáng.
Nếu bạn nhẩy
múa nhanh, di chuyển nhanh, quay tròn nhanh, bạn bỗng nhiên cảm thấy choáng
váng, buồn nôn, cứ dường như tâm trí biến mất. Nếu bạn tiếp tục, trong vài ngày
choáng sẽ có đó và thế rồi nó lắng đọng. Khoảnh khắc choáng qua đi, bạn sẽ thấy
tâm trí cũng qua đi, bởi vì không có ai để cảm thấy choáng cả. Và thế thì sáng
tỏ tới. Thế thì bạn nhìn vào mọi thứ mà không có tâm trí. Không tâm trí, cái
toàn thể lộ ra - và với cái toàn thể, là biến đổi.
Khi những cái
nhị nguyên đó dừng tồn tại, thì bản thân cái một không thể tồn tại.
Và nhớ lấy, khi
chúng ta dùng từ ‘cái một’, điều đó nữa cũng là một phần của nhị nguyên. Nếu
không có nhị nguyên làm sao có thể có cái một? Đó là lí do tại sao người Hindu
không bao giờ dùng ‘cái một’. Nếu bạn hỏi Shankara, “Bản tính của sự tồn tại là
gì?” thì ông ấy nói, “Bất nhị, advaita, không hai.”
Ông ấy sẽ không
bao giờ nói một, bởi vì làm sao bạn có thể nói một được? Nếu chỉ có một, làm
sao bạn có thể nói một? Một cần hai mới có nghĩa. Nếu không có khả năng nào về
cái hai, về số hai, thế thì ích gì mà nói rằng nó là một? Shankara nói, “Nhiều
nhất, ta có thể nói không hai, nhưng ta không thể nói một cách khẳng định về một.
Ta có thể nói điều không phải là thực tại: nó không là hai. Ta không thể nói nó
là gì, bởi vì ý nghĩa, lời nói, tất cả đều trở thành vô dụng.”
Khi những cái
nhị nguyên đó dừng tồn tại...
Khi bạn không
thể thấy được yêu bên ngoài ghét, bạn sẽ cho yêu ý nghĩa gì? Từ điển không thể
do Tăng Xán viết ra được. Nếu ai đó bảo tôi viết ra cuốn từ điển, tôi không thể
làm điều đó được. Điều đó là không thể được, bởi vì tôi sẽ cho tình yêu ý nghĩa
gì? Từ điển chỉ có thể có được nếu yêu và ghét là khác nhau, không chỉ khác
nhau mà còn đối lập nhau. Cho nên bạn có thể viết: yêu là không ghét. Khi bạn
phải định nghĩa ghét, bạn có thể nói: không yêu.
Nhưng Tăng Xán
sẽ làm gì? Nếu bạn hỏi ông ấy: “Yêu là gì?” làm sao ông ấy định nghĩa được yêu?
- bởi vì yêu là ghét nữa. Làm sao ông ấy sẽ định nghĩa được cuộc sống? - bởi vì
sống là chết nữa. Làm sao ông ấy định nghĩa được trẻ con? - bởi vì trẻ con là
người già nữa. Làm sao ông ấy định nghĩa được cái đẹp?- bởi vì cái đẹp là cái xấu
nữa. Các biên giới biến mất, thế thì bạn không thể định nghĩa được điều gì bởi
vì định nghĩa cần tới biên giới, và định nghĩa phụ thuộc vào cái đối lập; tất cả
các định nghĩa đều phụ thuộc vào cái đối lập.
Nếu chúng ta
nói đàn ông là gì, chúng ta có thể nói: không phải là đàn bà - và điều đó được
định nghĩa. Nhưng nếu bạn nhìn vào Tăng Xán và hiểu ông ấy, thì mọi đàn ông đều
là đàn bà, mọi đàn bà đều là đàn ông. Đây là cách thức sự việc hiện hữu. Bây giờ
các nhà tâm lí đã phát hiện ra sự kiện đó nữa: rằng đàn ông và đàn bà là lưỡng
dục. Mọi đàn ông đều có đàn bà ẩn bên trong, và mọi đàn bà đều có đàn ông ẩn
bên trong cô ấy - họ có đấy. Không đàn bà nào đơn giản là đàn bà, không thể được.
Trong sự tồn tại này chẳng cái gì có thể hiện hữu mà không có cái đối lập. Và
không đàn ông nào có thể hiện hữu mà không có đàn bà, người đàn bà có đấy.
Bạn được sinh
ra từ hai bố mẹ; một người là đàn ông, một người là đàn bà. Bạn mang cả hai người
này bên trong, nửa nọ nửa kia. Điều này phải là như vậy, không có cách nào khác
để được sinh ra. Bạn không chỉ được sinh ra từ đàn bà, nếu không thì bạn đã chỉ
là đàn bà. Bạn không chỉ được sinh ra từ người bố, nếu không thì bạn đã chỉ là
đàn ông. Bạn được sinh ra từ nhị nguyên, đàn ông và đàn bà. Họ cả hai đều đóng
góp, bạn là cả hai.
Điều đó tạo nên
rắc rối, bởi vì khi tâm trí nghĩ về đàn bà, nó bao giờ cũng nghĩ dưới dạng nữ
tính. Nhưng thế thì bạn không biết đấy thôi: nếu đàn bà trở nên dữ, cô ấy còn dữ
hơn bất kì đàn ông nào; nếu cô ấy giận, không đàn ông nào tranh được với cô ấy;
nếu cô ấy ghét, không đàn ông nào có thể ghét như cô ấy.
Tại sao? - bởi
vì người đàn bà của cô ấy mệt mỏi, trên bề mặt, và người đàn ông của cô ấy bao
giờ cũng nghỉ ngơi và tràn đầy năng lượng hơn. Cho nên bất kì khi nào cô ấy giận,
cô ấy còn giận hơn bởi vì người đàn ông này bắt đầu hoạt động, và người đàn ông
đó đang nghỉ ngơi. Và bất kì khi nào đàn ông buông xuôi hay trở nên rất đáng
yêu, anh ta còn nữ tính hơn bất kì đàn bà nào, bởi vì thế thì người đàn bà, mà
bao giờ cũng nghỉ ngơi ấy và đang ẩn kín đằng sau ấy, và bao giờ cũng tươi tắn
và trẻ trung ấy, lại tới.
Nhìn các thần của
người Hindu mà xem. Họ có đúng điều đó, họ đã hiểu nhị nguyên rất rõ. Bạn phải
đã thấy các bức tranh về Kali, Mẹ. Bà ấy là một người đàn bà rất dữ với vòng
xương sọ đeo quanh cổ, cái đầu máu me trong một tay, và nhiều tay khác mang vũ
khí để giết hại. Bà ấy là vợ của Shiva, và Shiva đang nằm dài còn bà ấy thì đứng
trên ngực ông ấy.
Khi lần đầu
tiên người phương Tây bắt đầu nghĩ về biểu tượng này, họ phân vân: “Tại sao? Và
sao các ông ấy lại gọi người phụ nữ này là ‘mẹ’? Bà ấy trông như cái chết!”
Nhưng người Hindu nói rằng người mẹ cũng có cái chết trong mình, bởi vì người mẹ
cho việc sinh, thế thì ai sẽ cho bạn cái chết, cái đối lập? Người mẹ cho bạn việc
sinh, thế thì bà ấy sẽ cho bạn cả cái chết nữa. Điều này phải là như vậy.
Kali, Mẹ, vừa
là nguy hiểm, huỷ diệt và sáng tạo. Bà ấy là mẹ, lực sáng tạo, và bà ấy cũng là
cái chết, lực huỷ diệt. Bà ấy yêu Shiva nhưng bà ấy đứng trên ngực ông ấy dường
như sẵn sàng giết chết.
Nhưng đây là bản
chất của cuộc sống. Tình yêu giết chết, sinh trở thành tử, cái đẹp biến mất,
cái xấu đi vào. Mọi thứ mờ đi trong cái đối lập, tan chảy vào trong cái đối lập.
Tất cả logic đều có vẻ vô ích và tâm trí bị choáng.
Khi những cái
nhị nguyên đó dừng tồn tại...
Và khi bạn thấy
qua tất cả chúng, thì chúng đơn giản dừng tồn tại - bởi vì yêu là ghét. Từ đúng
sẽ là ‘yêu ghét’ - một từ, không phải hai từ. Điều đúng sẽ là ‘sống chết’ - một
từ, không phải hai từ. Từ đúng sẽ là ‘đàn ông đàn bà’, ‘đàn bà đàn ông’ - không
phải hai từ, một từ, cùng nhau.
Nhưng thế thì
cái một cũng biến mất, dừng tồn tại. Thế thì phỏng có ích gì mà nói rằng cuộc sống
là một? Hai biến mất; trong thức tỉnh một cũng biến mất.
Đó là lí do tại
sao Tăng Xán và tất cả các tín đồ của Phật cứ nhấn mạnh rằng khi bạn nhận ra
chân lí, nó không một cũng chẳng hai, nó là cái trống rỗng. Bây giờ bạn có thể
hiểu tại sao họ nói shunyata, trống rỗng. Mọi thứ biến mất, bởi vì khi hai biến
mất, một biến mất - thế thì cái gì còn lại? Chẳng cái gì còn lại, hay, chỉ cái
không là còn lại. Cái không này là đỉnh cao tối thượng của chứng ngộ, khi bạn
thấy mọi trống rỗng, khi mọi sự trở thành trống rỗng.
Với cái chung
cuộc tối thượng này thì không luật hay mô tả nào áp dụng được.
Với tâm trí thống
nhất theo Đạo thì tất cả mọi cố gắng tự định tâm đều dừng.
Bạn sẽ cố gắng
đạt tới cái gì trong cái trống rỗng này? Đâu là mục đích và ai là người tìm kiếm
và ai là cái được tìm kiếm? Không có mục tiêu cần đạt tới, không có người có thể
đạt tới. Và tất cả cố gắng đều dừng lại.
Đây là an bình
của Phật, im lặng toàn bộ - bởi vì không có gì phải đạt tới cả, không có ai đạt
tới, không đâu để đi, không ai đi. Mọi thứ đều trống rỗng. Bỗng nhiên toàn bộ cố
gắng biến mất. Bạn không đi đâu cả. Bạn bắt đầu cười, bạn bắt đầu tận hưởng cái
trống rỗng này. Thế thì không có rào chắn nào cho tận hưởng của bạn, thế thì
phúc lạc cứ đổ lên bạn.
Nếu sự tồn tại
được cảm nhận như cái trống rỗng, thế thì không ai có thể quấy rầy phúc lạc của
bạn được bởi vì không có ai quấy rối nó. Nó là bạn - bởi vì cái nhị nguyên của
bạn mà bạn mới bị quấy rối. Bạn yêu, và thế rồi ghét tới và ghét quấy rối. Bạn
muốn đẹp, và thế rồi cái xấu đi vào và thế rồi cái xấu quấy rối. Bạn muốn sống
động mãi mãi và mãi mãi, và thế rồi cái chết gõ cửa và cái chết quấy rối.
Nếu bạn có thể
thấy cái đối lập bị che kín ấy, bỗng nhiên bạn không đòi hỏi điều gì nữa, bạn
không tìm kiếm điều gì nữa, bởi vì bạn biết với bất kì cái gì bạn xin, cái đối
lập sẽ tới. Nếu bạn thỉnh cầu danh vọng, kính trọng, xúc phạm sẽ tới từ mọi
nơi; nếu bạn tìm hoa, gai sẽ rơi vào bạn; nếu bạn muốn được nổi tiếng, bạn sẽ bị
quên lãng; nếu bạn muốn đạt tới ngai vàng, bạn sẽ bị tống khứ đi hoàn toàn.
Bất kì cái gì bạn
thỉnh cầu, cái đối lập sẽ được trao cho bạn. Thế thì ý nghĩa của việc cầu xin
là gì, thế thì tại sao phải cầu xin cái gì? Các ham muốn sẽ được hoàn thành,
nhưng vào lúc mà chúng được hoàn thành, bạn sẽ ngạc nhiên - cái đối lập đã tới
trong tay bạn. Bạn sẽ đạt tới các mục tiêu, nhưng vào lúc đạt tới mục tiêu bạn
sẽ kêu khóc, bởi vì cái đối lập bị che kín trong mục tiêu đó. Bạn sẽ đạt tới bất
kì nơi nào bạn muốn đạt tới, nhưng chính việc đạt tới đó sẽ trở thành thất vọng.
Tất cả những cố
gắng tự định tâm đều dừng lại khi cái trống rỗng này được thấy là trống rỗng.
Cái gì có đó để mà cố gắng? Tâm trí thành đạt rơi mất, biến mất trong cát bụi.
Hoài nghi và do
dự tan biến và sống trong niềm tin đúng là điều có thể.
Đây là khác biệt.
Những lời này của Tăng Xán được viết trong ‘Tín thư’ bằng tiếng Trung quốc. Rất
khó cho người Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, Hindu giáo hiểu được đây là kiểu niềm
tin đúng nào. Cố hiểu đi; đó là hiểu biết sâu sắc nhất về niềm tin.
Thông thường điều
vẫn được thuyết giảng trong nhà thờ, chùa chiền, đền đài - điều mà người Ki tô
giáo, người Mô ha mét giáo, người Hindu giáo nói tới - không phải là niềm tin,
mà là đức tin: đức tin vào Thượng đế! Nhưng làm sao bạn có thể tin được? Bởi vì
mọi đức tin đều mang hoài nghi riêng của nó. Đó là lí do tại sao bạn cứ khăng
khăng rằng, “Tôi tuyệt đối tin tưởng!”
Khi bạn nói,
“Tôi tuyệt đối tin tưởng,” thực sự bạn đang nói gì vậy? Tại sao lại có cái ‘tuyệt
đối’ này. Tại sao lại có nhấn mạnh này? Nó chứng tỏ rằng hoài nghi đang ẩn kín
đâu đó, và bạn đang che giấu nó bằng từ ‘tuyệt đối’, bằng từ ‘toàn bộ’ - bằng sự
nhấn mạnh này. Bạn đang định lừa dối ai vậy? Bạn đang lừa dối bản thân mình đấy.
Nhấn mạnh chỉ ra rằng cái đối lập đang ẩn kín đâu đó.
Khi bạn nói với
ai đó, “Anh yêu em và duy nhất em thôi,” thì hoài nghi đang bị che giấu. Tại
sao lại ‘duy nhất em’? Tại sao bạn nói điều đó? Tại sao bạn muốn nhấn mạnh điều
đó? Khả năng yêu ai đó khác bị che giấu ở đó, cho nên bạn nhấn mạnh cái khả
năng đó. Nếu bạn không che giấu nó, vấn đề có thể trở thành rõ ràng, nó có thể
xảy tới, nó có thể trồi lên bề mặt. Thế thì phải làm gì? Chỉ làm mọi sự thu xếp
để che giấu nó.
Tại sao bạn
nói, “Tôi là người tin tưởng đúng”? Liệu cũng có thể có người tin tưởng không
đúng sao? Đức tin đúng này là gì vậy? Đức tin đúng có nghĩa là bạn đã che giấu
cái hoài nghi đó toàn bộ đến mức không ai có khả năng biết được, nhưng bạn biết
nó rõ lắm. Và đó là lí do tại sao những người tin lại không thích nghe những điều
đi ngược lại với đức tin của họ. Họ trở thành điếc bởi vì họ bao giờ cũng sợ
hãi. Bạn sợ người khác, sợ điều người đó sắp nói; bạn sợ người ấy có thể chạm tới
hoài nghi bị giấu kín và hoài nghi đó có thể trồi ra.
Cho nên người
tôn giáo thông thường sẽ không thích nghe kẻ vô thần. Họ sẽ nói, “Không, người ấy
có thể phá huỷ đức tin.” Nhưng đức tin có thể bị phá huỷ được không? Và nếu đức
tin có thể bị phá huỷ, thế thì có đáng để níu bám không? Nếu đức tin cũng có thể
bị phá huỷ, thế thì đây là kiểu đức tin gì vậy? Nhưng nó có thể bị phá huỷ bởi
vì hoài nghi có đó, hoài nghi đã xói mòn nó rồi.
Điều này xảy ra
hàng ngày. Kẻ tin trở thành kẻ không tin, kẻ không tin trở thành kẻ tin - họ
thay đổi, dễ dàng chuyển đổi. Tại sao? Bởi vì người kia bị ẩn kín. Đức tin đem
theo hoài nghi; như yêu đem theo ghét, sống đem theo chết, đức tin đem theo
hoài nghi. Thế thì niềm tin là gì?
Tăng Xán đã thực
sự hiểu niềm tin là gì. Niềm tin xảy ra chỉ khi nhị nguyên đã rơi rụng đi; đấy
không phải là đức tin chống lại hoài nghi. Khi đức tin và hoài nghi cả hai đều
đã biến mất, thế thì một cái gì đó xảy ra, cái vốn là niềm tin, cái vốn là tin
cậy. Bạn không tin cậy vào Thượng đế, bởi vì không có nhị nguyên, bạn và Thượng
đế. Không phải là bạn tin cậy, bởi vì bạn không có đó - bởi vì nếu bạn có đó thế
thì người khác sẽ có đó. Mọi thứ trống rỗng, và tin cậy nở hoa; cái trống rỗng
trở thành chính việc nở hoa của tin cậy.
Từ Phật giáo
shraddha - niềm tin, tin cậy - là rất, rất khác. Ý nghĩa là hoàn toàn khác với
ý nghĩa mà từ ‘đức tin’ chuyển tải. Không có ai để tin, không ai để được tin
vào; tất cả mọi nhị nguyên đều rơi rụng hết... thế thì tin cậy... Thế thì bạn
có thể làm gì? Bạn không thể hoài nghi, bạn không thể tin tưởng - bạn có thể
làm gì? Bạn đơn giản tin cậy và tuôn chảy trong luồng chảy. Bạn di chuyển theo
cuộc sống, bạn nghỉ ngơi với cuộc sống.
Nếu cuộc sống
đem tới việc sinh, bạn tin cậy vào việc sinh - bạn không khao khát. Nếu cuộc sống
đem tới cái chết, bạn tin cậy vào cái chết - bạn không nói rằng điều này là
không tốt. Nếu cuộc sống đem tới hoa, được; nếu cuộc sống đem tới gai, cũng được.
Nếu cuộc sống cho, điều đó tốt; nếu cuộc sống lấy đi, điều đó cũng tốt.
Đây là sự tin cậy:
không làm việc chọn lựa của riêng bạn, để lại mọi thứ cho cuộc sống, bất kì cái
gì... Không ham muốn, không đưa ra yêu cầu. Đơn giản đi tới bất kì nơi đâu cuộc
sống dẫn tới, bởi vì khoảnh khắc bạn yêu cầu, bây giờ bạn biết cái đối lập sẽ
là kết quả. Cho nên bạn không hỏi, “Xin cho chúng tôi cuộc sống vĩnh hằng,” bởi
vì bạn biết bạn sẽ được cái chết vĩnh hằng.
Bạn đã bao giờ
quan sát rằng trên toàn thế giới này chỉ người Ki tô giáo mới cầu nguyện về cuộc
sống vĩnh hằng không? Chỉ người Ki tô giáo mới cầu nguyện, “Xin Thượng đế cho
chúng con cuộc sống vĩnh hằng,” và chỉ người Ki tô giáo mới có địa ngục vĩnh viễn!
Phải có cái đối lập. Không tôn giáo nào khác lại có địa ngục vĩnh viễn cả. Họ
có địa ngục, nhưng địa ngục tạm thời thôi; bạn ở đó vài ngày, vài tháng, vài
năm, và thế rồi bạn được siêu việt lên, bởi vì không trừng phạt nào có thể là
vĩnh viễn cả. Làm sao nó có thể thế được?
Khi mọi vui vẻ
đều tạm thời, làm sao trừng phạt có thể là vĩnh viễn được? Khi phần thưởng là tạm
thời, làm sao trừng phạt có thể là vĩnh viễn? Khi bạn không bao giờ có được cái
gì vĩnh viễn trong cuộc sống, làm sao bạn có thể bị trừng phạt vĩnh viễn vì nó
được? Dường như là bất công.
Nhưng người Ki
tô giáo yêu cầu, cầu nguyện cuộc sống vĩnh viễn. Thế thì bạn phải làm cân bằng:
địa ngục vĩnh viễn. Một khi bạn phạm tội và bị tống vào địa ngục bạn sẽ không
bao giờ có khả năng thoát ra khỏi nó. Mãi mãi và mãi mãi bạn sẽ ở đó. Điều này
phải là như vậy, bởi vì bạn đã yêu cầu cuộc sống vĩnh viễn.
Tin cậy của Phật
tử có nghĩa là hiểu biết sâu sắc về sự kiện rằng bất kì cái gì bạn yêu cầu đều
sẽ đi sai. Cố hiểu điều đó đi. Tôi sẽ nhắc lại: bất kì cái gì bạn ham muốn sẽ
đi sai.
Hiểu điều này,
ham muốn biến mất. Khi ham muốn biến mất, có tin cậy! Tin cậy có nghĩa là đi với
cuộc sống mà không có bất kì trông đợi, ham muốn, yêu cầu gì của riêng bạn.
Không đòi hỏi, không phàn nàn. Bất kì cái gì xảy ra, chấp nhận nó.
Và nhớ, đây
không phải là cái gì đó bạn làm. Nếu bạn làm nó, thế thì có bác bỏ. Nếu bạn
nói, “Vâng, tôi chấp nhận,” bạn đã bác bỏ. Bạn nói, “Bất kì cái gì xảy ra tôi sẽ
chấp nhận” - có bác bỏ sâu sắc đằng sau nó.
Bạn không thực
sự chấp nhận. Bạn đang chấp nhận chỉ bởi vì bạn cảm thấy bất lực, bởi vì không
thể làm được gì, cho nên phải làm gì? - chấp nhận. Nhưng chấp nhận đó có phiền
muộn sâu sắc trong nó, sự bác bỏ. Nếu như có khả năng bác bỏ, bạn đã chọn việc
bác bỏ. Thế thì đấy không phải là tin cậy.
Việc thấy thực
tại một cách đơn giản, rằng cái đối lập được bao hàm ở mọi nơi, Tăng Xán nói
tin cậy xảy ra. Không phải là bạn nói, “Tôi chấp nhận”; không phải là trong mọi
bất lực mà bạn chấp nhận đâu. Đơn giản bản chất của cuộc sống là cái đối lập
cũng được bao hàm. Việc nhìn vào sự kiện, chân lí, sâu bên trong bạn, sẽ cho bạn
tin cậy. Nhìn vào sự kiện này, niềm tin xảy ra.
Nếu tôi thấy rằng
tôi được sinh ra, thế thì sự kiện có đấy rằng tôi sẽ chết. Đây là một sự kiện
đơn giản. Tôi không chấp nhận nó bởi vì không có bác bỏ; tôi đơn giản tin cậy.
Khi tôi đã tin vào việc sinh ra, cuộc sống đã cho tôi việc sinh, và tôi đã tin
cậy, thì cuộc sống sẽ cho tôi cái chết, và tôi tin cậy. Nếu sinh đã đẹp như vậy,
thì sao chết lại không đẹp? Và bạn là ai mà quyết định? Nếu cái sinh đã cho bạn
nhiều thế, sao cái chết lại không cho thế?
Cái chưa biết
bao giờ cũng có đó. Tin cậy có nghĩa là đi vào trong cái chưa biết, không đưa
ra đòi hỏi gì. Thế thì bạn không thể khổ sở được, thế thì phúc lạc cứ mưa rào
lên bạn. Làm sao bạn có thể khổ sở nếu bạn không đòi hỏi? Ai có thể làm cho bạn
khổ sở nếu bạn không yêu cầu? Cuộc sống dường như khổ sở bởi vì bất kì cái gì bạn
yêu cầu, cuộc sống dường như chỉ hướng tới cái đối lập. Cuộc sống sẽ trở thành
phúc lạc nếu bạn không yêu cầu; bất kì cái gì xảy ra đều đẹp đẽ. Bất kì cái gì
xảy ra đều đẹp đẽ - bạn đơn giản đi cùng nó.
Trang Tử nói
đúng: “Thoải mái là phải,” và “Giầy vừa quên chân.” Và khi bạn vừa vặn sâu sắc
với cuộc sống, hoài nghi, không tin tưởng đều biến mất. Vừa vặn này của chiếc
giầy là tin cậy. Niềm tin nảy sinh mà không phải là đức tin. Niềm tin nảy sinh
không cần bất kì Thượng đế nào để mà được tin vào.
Đó là lí do tại
sao Phật tử không nói về Thượng đế. Phật giáo thực sự đạt tới cốt lõi sâu xa nhất
của tôn giáo, và người như Tăng Xán là hiếm. Hiểu biết của họ là hoàn hảo, toàn
bộ. Cái toàn thể đã đi vào trong hiểu biết của họ. Họ không cần Thượng đế bởi
vì họ nói, “Tại sao cần Thượng đế? Sự tồn tại không đủ sao? Tại sao phải nhân
cách hoá nó? Và bất kì điều gì bạn làm thì sẽ chỉ giống như bạn - nó sẽ là sự
phóng chiếu. Cho nên tất cả các Thượng đế đều là phóng chiếu.”
Người Hindu làm
ra Thượng đế: nhìn Thượng đế này mà xem, nó chỉ là phóng chiếu của sinh lí học
Hindu - cái mũi, đôi mắt, chiều cao, mọi thứ. Nhìn Thượng đế của người Nhật,
nhìn Thượng đế của người da đen, và bạn có thể thấy rằng đây chỉ là phóng chiếu
của tâm trí riêng của chúng ta. Nếu như ngựa mà có Thượng đế của chúng thì Thượng
đế đó không thể là người được, họ sẽ phải là ngựa. Bạn có thể nghĩ được ngựa có
Thượng đế như con người không? Không thể được! Ngựa sẽ có ngựa làm Thượng đế của
chúng. Nếu cây cối có Thượng đế của chúng thì Thượng đế đó sẽ là cây cối.
Thượng đế của bạn
là gì? Phóng chiếu của bạn. Và tại sao bạn phóng chiếu? Bởi vì bạn muốn được
phóng chiếu. Không có Thượng đế bạn cảm thấy cô đơn, đơn độc, trống rỗng; bạn
muốn ai đó giúp bạn. Với yêu cầu giúp đỡ này, bạn đang tạo ra khổ sở cho bản thân
mình. Bây giờ cái đối lập sẽ xảy ra. Mọi khoảnh khắc bạn sẽ cảm thấy Thượng đế
không lắng nghe, và bạn đang cầu nguyện và khóc lóc còn ông ấy thì không lắng
nghe. Và mọi khoảnh khắc bạn sẽ cảm thấy bạn đã làm mọi điều và bạn chẳng được
trao cho cái xứng đáng với bạn.
Các thánh nhân,
cái gọi là thánh nhân, bao giờ cũng có những điều phàn nàn bởi vì họ đã từ bỏ
thế giới mà phúc lạc vẫn không xảy ra. Họ vô dục, nhưng ấy vậy mà hoa lại không
rơi vào họ. Và họ đã làm điều này điều nọ, họ có một danh sách dài dằng dặc, và
họ đã làm nhiều điều, ấy vậy mà Thượng đế cứ ở xa xôi mãi thế. Họ không tin cậy,
họ vẫn đang làm cuộc tranh đấu với cuộc sống. Họ không cho phép cuộc sống xảy
ra theo cách riêng của nó. Họ có ý tưởng riêng của mình để ép buộc lên cuộc sống
- đó là không tin cậy.
Không tin cậy
có nghĩa là bạn có ý tưởng nào đó để ép buộc. Bạn nghĩ bản thân mình là khôn
ngoan hơn bản thân cuộc sống. Đó là không tin cậy, đó là không tin tưởng. Bạn
muốn áp đặt bản thân mình. Bạn cứ vào nhà thờ, giáo đường, và xem mọi người cầu
nguyện Thượng đế. Họ đang nói gì vậy? Họ đang đưa ra lời khuyên. Họ đang nói,
“Đừng làm điều này, điều này sai. Con tôi đang ốm, làm cho nó mạnh khoẻ lên.”
Ngay chỗ đầu
tiên, nếu bạn thực sự tin cậy, thế thì Ngài làm cho con bạn ốm đấy - vậy tin cậy
vào điều đó đi! Tại sao lại cứ đi phàn nàn và cầu nguyện? Bạn cho là bạn có thể
cải tiến Ngài được chăng? Mọi lời cầu nguyện đều có nghĩa là cầu Thượng đế rằng
“Xin đừng làm hai với hai thành bốn. Dù bất kì cái gì xảy ra, bất kì cái gì tự
nhiên, đừng để cho nó xảy ra.” Bạn có ý tưởng nào đó để gợi ý, bạn có lời
khuyên nào đó - đây không phải là tin cậy.
Tin cậy nghĩa
là: “Tôi không là ai cả và tôi đi tới bất kì chỗ nào mà cuộc sống dẫn tôi tới,
bất kì đâu - đi vào trong cái chưa biết, trong bóng tối, cái chết hay cuộc sống.
Dù nó dẫn tới đâu, tôi đều sẵn sàng. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng và tôi vừa khớp.”
Nhưng khi nào bạn có thể vừa khớp? Bạn có thể vừa khớp chỉ khi nhị nguyên dừng
lại; khi bạn có thể thấy, và chính việc thấy đó trở thành việc dừng lại - dừng
ham muốn, yêu cầu.
Với tâm trí thống
nhất theo Đạo thì tất cả mọi cố gắng tự định tâm đều dừng.
Hoài nghi và do
dự tan biến và sống trong niềm tin đúng là điều có thể.
Chỉ với một cú
chúng ta thoát khỏi tù túng...
Chỉ với một cú
chúng ta thoát khỏi tù túng. Đó không phải là việc dần dần. Không phải là dần dần
mà bạn đạt tới chân lí đâu, vấn đề không phải là ở mức độ. Bằng một cú thôi,
khi bạn thấy chân lí, trong một khoảnh khắc bạn thoát khỏi mọi tù túng.
Vấn đề không phải
là nỗ lực, bởi vì bất kì điều gì bạn làm, bạn sẽ làm với tâm trí, mà tâm trí là
nguyên nhân cho tất cả mọi khổ sở. Và bất kì điều gì bạn làm với tâm trí đều sẽ
làm mạnh thêm cho tâm trí. Bất kì điều gì bạn làm với tâm trí đều sẽ là sự cố gắng.
Và bất kì điều gì bạn làm với tâm trí thì tâm trí cũng sẽ là việc chọn lựa từ
hai cực đối lập. Bạn sẽ dính líu vào nhiều hơn.
Cho nên vấn đề
không phải là làm gì, vấn đề là cách nhìn. Vấn đề không phải là thay đổi tính
cách của bạn, vấn đề không phải là trở nên tốt hơn, trở nên thánh thiện hơn, ít
tội lỗi hơn - không, đấy không phải là vấn đề. Vấn đề là: cách nhìn không có
tâm trí, cách nhìn không có chọn lựa. Vấn đề không liên quan tới việc làm và
hành động, vấn đề liên quan tới phẩm chất của nhận biết.
Đó là lí do tại
sao ở phương Đông chúng ta đã nhấn mạnh vào thiền, và ở phương Tây người ta đã
nhấn mạnh vào đạo đức. Khi lần đầu tiên Upanishad được dịch sang tiếng phương
Tây thì các học giả rất phân vân, bởi vì họ không có gì giống như Mười điều răn
dạy trong Upanishad - “Đừng làm điều này, làm điều nọ” - chẳng có gì ở đó cả. Họ
đã phân vân. Làm sao Upanishad này lại là kinh sách tôn giáo? Bởi vì tôn giáo
có nghĩa là đạo đức, tôn giáo có nghĩa, “Đừng làm điều này và làm điều kia,” nó
là việc làm. Và Upanishad không nói về điều phải làm, chúng chỉ nói về cách hiện
hữu, cái hiện hữu.
Làm sao để tỉnh
táo hơn và nhận biết hơn, đó là vấn đề duy nhất - làm sao để nhận biết tới mức
bạn có thể thấu suốt, và các phía đối lập trở thành một và các nhị nguyên dừng
lại. Trong hiểu thấu sâu sắc về nhận biết, tội nhân biến mất, thánh nhân cũng
biến mất, bởi vì họ cả hai đều thuộc về nhị nguyên. Thượng đế chết và Quỉ cũng
chết, bởi vì họ cũng thuộc vào nhị nguyên - tâm trí đã tạo ra họ.
Và Ki tô giáo vẫn
còn trong rối loạn sâu sắc, bởi vì làm sao thu xếp được cho cả Quỉ và Thượng đế?
Đây thực sự là vấn đề. Ngay chỗ đầu tiên, làm sao Quỉ này lại tới? Nếu bạn nói
Thượng đế tạo ra Quỉ thế thì trách nhiệm đổ về bản thân Thượng đế. Và điều gì sẽ
xảy ra ở chỗ cuối? Ai sẽ thắng? Nếu bạn nói Thượng đế sẽ thắng, cuối cùng, thế
thì tại sao toàn bộ cái vô nghĩa này cứ diễn ra trên đường, trên phố? Nếu Thượng
đế cuối cùng sẽ thắng, thì tại sao lại không bây giờ?
Và nếu bạn nói
có thể không có chiến thắng cuối cùng, không thắng lợi, thì xung đột sẽ tiếp tục,
thế thì Quỉ trở thành mạnh như Thượng đế. Và ai mà biết được? - nó có thể thắng
ở lúc cuối. Và nếu nó thắng thế thì điều gì sẽ xảy ra cho tất cả các vị thánh của
bạn? Thế thì tội nhân sẽ hạnh phúc còn thánh nhân sẽ bị tống vào địa ngục.
Nhưng toàn bộ vấn đề lại nảy sinh bởi vì tâm trí nhị nguyên.
Tâm trí không
thể thấy rằng Thượng đế và Quỉ là một. Họ là một đấy! Quỉ chỉ là phía đối lập:
cực đoan kia, cái ghét, cái chết. Cho nên bạn nói Thượng đế là tình yêu còn Quỉ
là căm ghét, Thượng đế là từ bi còn Quỉ là bạo hành, và Thượng đế là ánh sáng
còn Quỉ là bóng tối. Ngu xuẩn làm sao! - bởi vì bóng tối và ánh sáng là hai
khía cạnh của một năng lượng. Tốt và xấu, phải và trái, đạo đức và vô đạo đức,
cả hai đều là hai cực của một hiện tượng. Và một hiện tượng đó là sự tồn tại.
Tăng Xán sẽ
không gọi nó là Thượng đế, bởi vì nếu bạn gọi nó là Thượng đế, bạn phủ nhận Quỉ
- nó là Thượng đế cộng với Quỉ. Sự tồn tại là cả đêm và ngày, cả buổi sáng và
buổi tối, hạnh phúc, bất hạnh - tất cả. Nó là sự cùng nhau. Và khi bạn thấy điều
này, thì thiên đường và địa ngục cả hai đều cùng nhau, thế thì chọn lựa ở đâu?
Và đâu là vấn đề về việc chọn cái gì hay đòi hỏi cái gì?
Mọi yêu cầu đều
dừng lại. Niềm tin nẩy sinh. Tin cậy xảy ra trong cái trống rỗng của chân lí -
nơi nhị nguyên dừng lại, nơi bạn thậm chí không thể nói rằng người ta là hiện
tượng chưa biết nở hoa, chính là tin cậy. Một cái gì đó nở bung mà là cái đẹp
nhất, quí giá nhất, và đó là hoa của tin cậy.
Chỉ với một cú
chúng ta thoát khỏi tù túng; không cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm
giữ cái gì.
Tất cả là trống
rỗng, rõ ràng, tự chói sáng, không dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ,
cảm giác, tri thức và tưởng tượng đều không có giá trị.
Thế thì người
ta sống, chỉ sống. Người ta thở, chỉ thở. Không tưởng tượng, không ý nghĩ,
không tâm trí - chúng tất cả đều không có giá trị. Bạn tin cậy vào sự tồn tại,
và khi bạn tin cậy vào sự tồn tại, thì sự tồn tại tin cậy vào bạn. Gặp gỡ với
tin cậy này là phúc lạc tối thượng, cực lạc, samadhi.
Cho nên phải
làm gì về nó? Vấn đề không phải là làm, chẳng cái gì có thể được làm cả. Bạn phải
thấy, bạn phải quan sát cuộc sống; trở thành người quan sát, nhìn vào mọi thứ.
Lần sau bạn cảm thấy tình yêu, đừng có bị nó lừa. Yêu, nhưng nhìn vào bên trong
- có ghét chờ đợi. Và quan sát. Và bỗng nhiên sẽ có chói sáng. Bạn sẽ có khả
năng thấy yêu này không phải là cái gì ngoài bước đầu tiên của ghét.
Thế thì cái gì
có đó để mà chọn lựa? Thế thì tại sao lại hỏi, “Xin Thượng đế cho chúng con nhiều
tình yêu nữa?" - bởi vì nhiều ghét sẽ tới. Cho nên bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ nổi
lên trong yêu và bạn sẽ biết ghét đang tới. Bạn không níu bám vào yêu... bởi vì
níu bám có nghĩa là bạn đang tranh đấu chống lại ghét. Và bạn biết, như đêm tới
sau ngày, sau yêu thì ghét sẽ tới. Thế thì điều gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ không níu
bám lấy yêu mà cũng sẽ không ghét cái ghét.
Và khi bạn đang
trong cân bằng như vậy, trong thanh bình như vậy, nơi bạn không yêu cầu yêu,
nơi bạn không muốn xa khỏi ghét, nơi bạn không níu bám lấy bất kì cái gì, và
không cái gì níu bám lấy bạn, bỗng nhiên bạn không yêu cũng chẳng ghét - bỗng
nhiên, trong một cú, nhị nguyên bị tan vỡ. Từ bất kì đâu...
Gurdjieff hay
nói với đệ tử của mình, “Tìm ra đặc trưng chính của ông đi.” Điều đó là tốt.
Tìm ra đặc trưng chính của bạn là gì - sợ? ghét? yêu? tham? dục? Đâu là đặc
trưng chính của bạn? Chỉ quan sát và thấy, và làm việc trên đặc trưng chính đó,
và cố gắng để thấy các phía đối lập cùng nhau.
Nếu nó là yêu,
thế thì thấy yêu và ghét cùng nhau đi. Nếu bạn có thể thấy, chúng phủ định lẫn
nhau. Bỗng nhiên bạn trống rỗng - không có yêu lẫn ghét. Chúng có thể là một
vào mỗi lúc. Cả hai cùng nhau, chúng phủ định lẫn nhau. Bỗng nhiên cả hai chúng
không có đó - chỉ bạn là bị bỏ lại một mình, trong cái đơn độc toàn bộ của
mình. Không cái gì có đó, không dấu vết của bất kì cái gì. Đây là cái trống rỗng,
shunyata mà Tăng Xán đang nói tới.
Và nếu bạn có
thể thấy điều này trong một nhị nguyên, thì bạn có thể thấy nó trong tất cả -
đó không phải là vấn đề lớn. Một khi bạn đã thấy nó trong một nhị nguyên,
yêu-ghét, thì bạn đã thấy nó trong tất cả. Cùng điều đó là ở mọi nơi. Phẩm chất
khác biệt hoàn toàn của bản thể sẽ đi vào sự tồn tại.
Tin cậy đi. Nó
không phải là cái gì đó để tin vào, một học thuyết, nó chẳng liên can gì tới bất
kì Thượng đế nào, bất kì Christ nào, Krishna, Mohammed, bất kì Koran, Kinh
thánh, Gita. Không, nó có cái gì đó liên quan tới nhận biết của bạn. Đầy tỉnh
táo, thấy xuyên thấu, bạn trở nên tự do - và ngay một cú.
Chỉ với một cú
chúng ta thoát khỏi tù túng; không cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm
giữ cái gì.
Tất cả là trống
rỗng, rõ ràng, tự chói sáng, không dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ,
cảm giác, tri thức và tưởng tượng đều không có giá trị.
Đừng nghĩ về
nó, thử thấy nó trong cuộc sống đi. Điều đó sẽ đau đớn, bởi vì khi bạn đang cảm
thấy yêu bạn không muốn nghĩ về ghét chút nào. Bạn thực sự sợ rằng nếu bạn nghĩ
về ghét, thế thì toàn bộ cực lạc của tình yêu sẽ biến mất. Khi bạn đang sống động
bạn không muốn nghĩ về cái chết chút nào, bởi vì bạn sợ rằng nếu bạn nghĩ quá
nhiều về cái chết thế thì bạn sẽ không có khả năng tận hưởng cuộc sống.
Nhưng theo một
cách nào đó nỗi sợ của bạn là phải. Nếu bạn thực sự trở nên nhận biết về cái chết,
bạn sẽ không có khả năng tận hưởng cuộc sống theo cách mà bạn đang tận hưởng
nó. Nó không nhiều khoái trá. Nó không phải thế - nó chỉ là khổ sở. Bạn sẽ
không có khả năng tận hưởng nó theo cách này. Và cách này thì không phải là
khoái trá chút nào, nhớ lấy.
Nếu bạn nghĩ về
ghét trong khi làm tình, bạn sẽ không có khả năng tận hưởng nó theo cách mà bạn
đã tận hưởng nó. Nhưng nó có thực là sự tận hưởng hay chỉ là ám ảnh? Bạn đã bao
giờ thực sự tận hưởng tình yêu chưa? Nếu bạn đã tận hưởng nó thế thì bạn sẽ nở
hoa, thế thì bạn sẽ có hương thơm khác - và nó không có đó. Thế thì bạn sẽ có
chói sáng khác của bản thể, và nó không có đó. Bạn trống rỗng, nghèo nàn, sâu
bên trong - đen tối, không ngọn lửa. Cho nên tình yêu này và cuộc sống này và mọi
thứ đã từng là kiểu tận hưởng gì vậy? Không, bạn đã bị lừa dối.
Tình yêu của bạn
không là gì ngoài sự say sưa, chất ma tuý: trong vài khoảnh khắc bạn ngã vào
trong nó và quên mất. Thế rồi ghét tới và thế rồi bạn khổ sở. Và lần nữa, bởi
vì bạn khổ sở, nên bạn tìm tình yêu, và tình yêu của bạn chẳng là gì ngoài lại
rơi vào trong giấc ngủ say. Đây đã từng là hình mẫu của bạn. Tất cả những điều
bạn gọi là hạnh phúc thì chẳng là gì ngoài việc rơi vào trong giấc ngủ. Bất kì
đâu bạn cảm thấy giấc ngủ ngon, bạn đều thấy nó như hạnh phúc.
Con người hạnh
phúc là gì trong tâm trí bạn? Người ấy là người không bị gây rắc rối bởi mọi vật.
Đó là lí do tại sao lại có nhiều hấp dẫn đến thế trong rượu, trong ma tuý, bởi
vì thế thì lo nghĩ bị quên lãng. Tình yêu của bạn là gì? Nó dường như là tiến
trình sinh học có sẵn cho việc làm bản thân bạn nghiện ma tuý. Và nó là hoá chất;
một số hoá chất của thân thể được tiết ra, cho nên cân bằng hoá chất bị thay đổi.
Nó không khác gì lắm với thuốc phiện hay LSD, bởi vì điều cơ bản là thay đổi
hoá chất trong thân thể.
Tình yêu làm
thay đổi; nhịn ăn cũng làm thay đổi, các hoá chất của thân thể mất đi hình mẫu
cũ. Trong hình mẫu mới đó, trong vài khoảnh khắc bạn cảm thấy phấn chấn. Căm
ghét lại tới, thế giới lại đi vào, và lo nghĩ, và bạn lại trong bánh xe. Điều
này bạn đã làm nhiều, nhiều kiếp rồi.
Bây giờ thử điều
gì đó mà Tăng Xán đang nói, và đây là điều mà tất cả chư phật đã nói. Nhìn
trong khi bạn đang yêu, trong khi bạn đang làm tình - đừng sợ - nhìn cách nó
đang biến thành ghét. Trong khi bạn đang sống, nhìn vào cách nó đang đi vào cái
chết - mỗi hơi thở và bạn lại đi vào trong cái chết. Mọi khoảnh khắc thời gian
trượt qua, và cái chết lại tới gần hơn, gần hơn nữa. Nhìn vào cách tuổi thanh
xuân của mình đang trở thành tuổi già. Nhìn vào cái đối lập đi!
Dũng cảm là cần
thiết, bởi vì hình mẫu cũ sẽ không có ích gì; nó sẽ bị phá huỷ bởi nó. Nhưng một
khi bạn có thể thấy ghét trong yêu, bạn sẽ đạt tới thanh bình mà vượt ra ngoài
cả hai. Nếu bạn có thể thấy cuộc sống và cái chết cả hai cùng nhau, bạn siêu việt
lên rồi. Trong một cú bạn siêu việt lên. Trong một cú bạn thoát ra ngoài tù
túng, lần đầu tiên bạn là linh hồn tự do - bạn là bản thân tự do. Đó là lí do tại
sao chúng ta gọi trạng thái tối thượng này là moksha, tự do.
Không có gì phải
làm cả. Bạn phải trở nên nhiều nhận biết trong việc làm của mình, trở nên nhiều
ý thức hơn. Đó là việc thiền duy nhất: trở nên tỉnh táo hơn. Trong một khoảnh
khắc nhận biết sắc bén, nhận biết này trở thành vũ khí, và trong chỉ một cú tất
cả mọi tù túng đều bị phá vỡ.
Xem tiếp Chương 9 – Quay về Mục lục