Osho - Chiều bên kia cái biết
Chương 3. Con đường nhiều, khách lữ hành ít
Nghi lễ hai
mươi mốt ngày mà Thầy đã chỉ ra Thầy đã làm trong lần sinh trước của Thầy có
thuộc vào tín ngưỡng đặc biệt nào về thiền hay tự hiểu mình không? Bởi vì từ việc
nói của Thầy, dường như là Thầy dứt khoát đại diện cho những phương pháp của một
thầy giáo vĩ đại hay teerthankara nào đó. Theo quan điểm này, tôi có thể xin hỏi
liệu Thầy có muốn gắn mối móc nối tâm linh với chuỗi tín ngưỡng nào không, hay
giống như Phật, Thầy đang định vạch ra con đường mới trên núi nào đó?
Suy nghĩ tín
ngưỡng sẽ vẫn còn là tín ngưỡng, và con đường của Phật cũng không phải là mới.
Cái mà từ lâu đã được mọi người bước qua nay đã trở thành con đường cũ, nhưng
những con đường mới được mở ra sau khi phá vỡ các tín ngưỡng cũ cũng không phải
là mới. Trên chúng nhiều người cũng đã du hành qua.
Phật đã vạch ra
một con đường mới; Mahavira đã bước trên con đường đã được thiết lập. Nhưng
trong chuỗi của Mahavira nữa, có một người đầu tiên đã vạch ra con đường mới.
Con đường của Mahavira cũng không phải là con đường cổ nhất. Teerthakara đầu
tiên đã làm cùng kiểu công việc như Phật. Việc vạch ra con đường mới không phải
là chuyện mới; bằng không các tín ngưỡng sẽ chẳng bao giờ được sinh ra. Bây giờ,
trong hoàn cảnh của tình huống hiện tại, cũng cần làm điều gì đó khác hơn cả
hai điều này, bởi vì thời nay mọi người thuộc cả hai kiểu này đều đã quá nhiều.
Nếu chúng ta
nhìn vào George Gurdjieff, ông ấy là đại diện cho một tín ngưỡng cổ như
Mahavira. Nếu chúng ta nhìn vào J. Krishnamurti, ông ấy dường như đang thiết lập
một tín ngưỡng mới như Phật. Nhưng cả hai tín ngưỡng này đều là các hình mẫu cổ.
Nhiều tín ngưỡng
đã bị tan vỡ và nhiều tín ngưỡng đang được tạo mới. Tín ngưỡng là mới hôm nay sẽ
trở thành cũ ngày mai. Tình huống của ngày nay là đến mức cả Mahavira lẫn Phật
đều không thể có sự hấp dẫn lâu dài, bởi vì mọi người không còn quan tâm đến
cái cũ nữa. Một tình huống mới đã được tạo ra trong đó mọi người cứ trở nên
không còn hứng thú với ngay cả cái mới. Cái mới bao giờ cũng bị coi là đối lập
với cái cũ, nhưng bây giờ chúng ta đang đứng tại điểm mà từ đó có thể thấy rõ
ràng rằng cái mới chỉ là việc bắt đầu của cái cũ. Cái mới có nghĩa là cái sẽ trở
thành cũ. Ngay khi chúng ta bắt đầu giải thích cái gì đó là mới thì sự việc bắt
đầu trở thành cũ. Bây giờ không có sự hấp dẫn về cái mới, và chúng ta bao giờ
cũng khiếp sợ cái cũ.
Đã có thời có sự
hấp dẫn tới cái cũ. Sự hấp dẫn này là sâu sắc. Cái càng cũ, nó càng được coi là
có giá trị. Nếu nó đã trải qua kinh nghiệm, nếu nó đã được xem xét kĩ lưỡng,
không có nỗi hoảng sợ trong việc theo nó, và người ta có niềm tin hoàn toàn vào
nó. Cho nên nhiều người đã bước trên con đường cũ đó và biết bao nhiều người đã
đạt tới bởi con đường đó, đến mức khách lữ hành mới thậm chí có thể bước đi với
mắt nhắm nếu họ muốn. Đã có đường cho cả người mù nữa. Không cần cho bất kì ai
hoài nghi nhiều lắm, suy nghĩ nhiều lắm, tìm kiếm nhiều lắm hay quyết định nhiều
lắm.
Và rất khó để
quyết định về cái chưa biết. Dù bạn có thể hoài nghi nhiều bao nhiêu, đến cuối
việc nhảy vào cái chưa biết vẫn chỉ là thông qua tin cậy, bởi vì hoài nghi có
thể, nhiều nhất, đưa bạn tới điểm tin cậy nào đó mà đến cuối cùng bạn có thể nhảy.
Nhưng hấp dẫn đó của cổ nhân đã bị mất rồi, và nó đã trở nên bị mất bởi nhiều
lí do.
Lí do thứ nhất
là thế này, rằng khi một người chỉ biết một tín ngưỡng, không có khó khăn.
Nhưng khi một người đi tới biết về nhiều tín ngưỡng, khó khăn phát sinh. Đã có
thời khi người Hindu được sinh ra trong một gia đình Hindu được nuôi lớn chỉ
trong môi trường Hindu và gần ngôi đền Hindu. Âm thanh tiếng chuông của ngôi đền
Hindu đã trở nên gắn với sữa mẹ và đã trở thành một phần dòng máu của người đó.
Vậy, vị thần hộ trì trong đền cũng là một phần của xương, máu và thịt người đó
như không khí, nước và núi non gần đó.
Không có đối thủ.
Không có nhà thờ Ki tô giáo, nhà thờ Mô ha mét giáo. Không có âm thanh của bất
kì tín ngưỡng nào khác rơi vào trong tai và tâm trí người đó. Cái cũ quá nhiều
trong sự tồn tại đến mức nó không thể được hỏi. Nó đã tồn tại lâu trước người
đó, và người đó đã lớn lên với nó và trong nó. Nhưng thế rồi, dần dần, nhà thờ
Mô ha mét giáo tới gần với đền chùa và nhà thờ Ki tô giáo và gurudwara cũng
theo đó.
Vào một thời,
tín ngưỡng có tác động lên mọi người, nhưng bây giờ sự lẫn lộn là tự nhiên. Chẳng
cái gì có thể được chấp nhận mà không có nghi ngờ bởi vì các ý nghĩ đối lập tồn
tại cạnh nhau. Nếu đền chùa vẫy gọi bạn bằng tiếng chuông reo của nó, thì lời gọi
gần đó cho lời cầu nguyện từ nhà thờ Mô ha mét giáo đồng thời bảo bạn đừng có
sai lầm mà đi vào đền chùa. Thế thì cả hai khái niệm này đi vào tâm trí đồng thời.
Lí do cơ bản
cho việc tăng chủ nghĩa hoài nghi trong thế giới này không phải là việc tăng
trí thông minh của con người. Con người vẫn thông minh như từ trước tới giờ. Lí
do chính cho việc tăng chủ nghĩa hoài nghi là việc đặt chồng một lúc các ấn tượng
của nhiều tín ngưỡng lên trí tuệ của người đó - đặc biệt là ấn tượng của những
văn hoá mâu thuẫn nhau.
Mọi con đường sẽ
gọi con đường khác là sai. Điều này là do sự bất lực. Không phải bởi vì con đường
khác thực tế là sai. Dẫu sao đi chăng nữa, nó sẽ phải bị gọi là sai, bởi vì nếu
con đường khác không thể được gọi là sai, thế thì sức mạnh đằng sau việc vẫy gọi
của con đường đúng của riêng người ta sẽ bị phá vỡ. Trong thực tế, nếu người ta
cứ nói rằng mình đúng, lúc nào cũng suy ra rằng người khác là sai.
Do đó mọi tín
ngưỡng đều có con đường của riêng nó. Những con đường này chưa bao giờ gặp gỡ
hay đan chéo nhau nhưng đơn giản chạy song song; mọi tín ngưỡng đều tuôn chảy một
cách tách rời theo tiến trình riêng của chúng. Trong tình huống đó, trong thời
kì đó, cái cổ đại đã có hấp dẫn rất sâu sắc, và một người như Mahavira là rất hữu
dụng và có ích. Nhưng khi các tín ngưỡng tăng lên về số lượng và tăng về đối thủ
của mình, thì tín ngưỡng cũ trở nên mơ hồ còn tín ngưỡng mới lại tăng giá trị.
Tín ngưỡng mới tạo ra những lời công bố về đối thủ nữa. Nhưng khi các tín ngưỡng
cũ chỉ làm lẫn lộn tâm trí ngày một nhiều và luận cứ của các đối thủ chẳng giải
quyết được gì, thế thì thay vì chọn từ tín ngưỡng cũ sẽ dễ dàng hơn là chọn từ
tín ngưỡng mới.
Có nhiều lí do
cho các tín ngưỡng mới. Thứ nhất, các nhà tiên tri và teerthankara của các tín
ngưỡng cũ đã được sinh ra từ hàng nghìn năm trước đây. Vậy, tiếng nói của họ đã
trở nên rất yếu. Nhà tiên tri của tín ngưỡng mới đang tồn tại với bạn, cho nên
tiếng nói của người đó trở thành sâu sắc và mạnh mẽ. Tín ngưỡng cũ nói theo
ngôn ngữ cổ đã tồn tại vào thời đó khi nó được sinh ra. Teerthankara hay phật
nói ngôn ngữ mới hiện đang được hình thành. Từ và câu cổ đã trở thành mơ hồ thì
bị vứt bỏ. Những từ mới được chế tác ra hiện đang đó, theo một nghĩ nào đó, là
trong trắng và người ta có thể dễ dàng phụ thuộc vào chúng.
Vậy, sự hấp dẫn
cho tín ngưỡng mới dần dần tăng lên khi nhiều tín ngưỡng đi vào trong tiếp xúc
chặt chẽ và gặp gỡ. Chúng ta bắt đầu sống, nói đại thể, tại ngã tư đường, chỗ nối
nơi tất cả các con đường gặp gỡ hay chấm dứt.
Nhưng bây giờ
không có hấp dẫn cho cả cái mới nữa, bởi vì bây giờ chúng ta đã đi tới biết rằng
tất cả những cái mới cuối cùng đều trở thành cũ, và bất kì cái gì là cũ thì có
thời đã là mới. Chúng ta cũng biết rằng khác biệt giữa cái cũ và cái mới chỉ là
về lời. Chỉ mỗi điều là cái mới đang chuyển động nhanh hơn. Trong vòng xấp xỉ
ba trăm năm, cái mới đã thu được cùng kính trọng và trạng thái mà cái cũ có thời
đã có.
Có thời cổ nhân
của cái gì đó đã là sự xác nhận cho tính đúng đắn của nó. Ngày nay, tính mới
trong bản thân nó đã trở thành bằng chứng cho cái gì đó là đúng. Chứng minh rằng
cái gì đó là mới là đủ cho mọi người bắt đầu tin cậy vào nó, cũng hệt như trong
quá khứ họ đã tin cậy vào tất cả những điều là cổ đại. Ngày nay, gọi cái gì đó
là cũ thì trong bản thân nó là kết án.
Cho nên tất cả
mọi tín ngưỡng đều đã trở nên bận rộn làm cho mình thành mới. Mọi tín ngưỡng đều
phát triển những người đề xuất, người nói về cái mới. Những con đường cũ vẫn
còn, và con đường mới cũng đã được tìm ra để cho mọi người bước lên chúng.
Nhưng khi hấp dẫn này về cái mới trở nên mạnh, một hiện tượng duy nhất xảy ra.
Vào thời mà cổ
nhân của một tín ngưỡng đã được lấy làm bằng chứng cho tính đúng của nó, thì mọi
tôn giáo đều cố gắng chứng tỏ rằng tín ngưỡng của họ là xưa nhất và cổ đại nhất.
Nếu người ta hỏi người Jaina, họ sẽ nói rằng tín ngưỡng của họ là tín ngưỡng cổ
đại nhất và rằng ngay cả Veda cũng sinh sau. Nếu người ta hỏi người theo Veda,
họ sẽ nói rằng Veda là cổ nhất, và họ sẽ cố gắng lần theo dấu vết nguồn gốc của
mình về xưa nhất có thể được - bởi vì càng cổ đại thì địa vị càng cao hơn.
Tương tự, khi
tính mới trở thành biểu tượng trạng thái, thì câu hỏi nảy sinh, "Mới thế
nào?" Quãng năm mươi năm trước ở Mĩ, nơi sự hấp dẫn về cái mới là mạnh nhất
do sự kiện là nền văn minh và xã hội Mĩ đã là mới nhất, đã có hai thế hệ - một
của những người già và thế hệ kia là của người trẻ hơn.
Nhưng bây giờ một
điều rất lạ đã xảy ra. Hiện tại ở Mĩ không chỉ có hai thế hệ. Ngày nay có thế hệ
tách biệt của những người bốn mươi tuổi, thế hệ tách biệt của những người ba
mươi tuổi, và lại thế hệ tách biệt của những người hai mươi tuổi, mười lăm tuổi.
Người ba mươi tuổi nói, "Đừng tin vào những người trên ba mươi tuổi."
Và thậm chí người hai mươi nhăm tuổi bây giờ cũng vô dụng. Học sinh trung học
bây giờ coi nhân viên đại học hai mươi nhăm tuổi là già. Điều chưa từng bao giờ
xảy ra trước đây là có thể có nhiều thế hệ thế trong một khoảng năm mươi năm.
Không ai thậm chí có thể tưởng tượng rằng có thể có cấp bậc ngay cả trong thế hệ
người trẻ, và rằng người hai mươi tuổi sẽ liệt người hai mươi nhăm tuổi là loại
lạc hậu và gần như chết.
Cho nên khi việc
đổi mới chuyển với nhịp độ nhanh thế, hấp dẫn cho cái mới cũng trở nên bị mất,
bởi vì hấp dẫn với cái mới được thiết lập không sớm hơn việc nó trở nên cũ. Thậm
chí phải mất thời gian để trở nên bị hấp dẫn. Tôn giáo không giống như mốt mới
nhất thời hay kiểu quần áo mới mà có thể được thay đổi trong vòng sáu tháng.
Tôn giáo cũng không giống như hạt mầm của hoa mùa vụ nào đó, có thể bị nhổ đi
trong bốn tháng sau khi được gieo. Tôn giáo rất giống cây tre: phải mất vài
nghìn năm để phát triển tới độ bão hoà của nó. Và nếu như cây bị thay đổi cứ bốn
hay năm năm, thế thì chúng sẽ không thể là cây tre được; chúng chỉ có thể giống
như cây hoa mùa vụ mà thôi.
Cho nên hấp dẫn
với cái mới cũng đang trở nên bị mất. Tôi đã nói rằng tất cả những điều này chỉ
làm rõ ràng rằng con đường của tôi thuộc kiểu thứ ba. Tôi không tin rằng ngôn
ngữ của Mahavira, của cổ nhân có hiệu lực, mà tôi cũng không nghĩ rằng tuyên
ngôn thiên về cái mới có thể có bất kì kết quả gì. Cả hai đều lạc mốt rồi. Tôi
cảm thấy rằng bây giờ nhấn mạnh vào cái vĩnh hằng là có ý nghĩa. Cái mà bao giờ
cũng hiện hữu mới là cái có ý nghĩa - chẳng cũ cũng chẳng mới.
Vĩnh hằng nghĩa
là cái không mới không cũ. Cái cũ và cái mới cả hai chỉ là những biến cố theo
thời gian, còn tôn giáo đã bị thiệt hại vì cả hai. Tôn giáo đã bị thiệt hại
trong tay cái cũ và cũng điều đó xảy ra trong mối liên kết của nó với cái mới.
Krishnamurti vẫn
cứ nhấn mạnh vào cái mới. Lí do là ở chỗ cái hiểu của ông ấy về các biến cố đã
quay lại thời kì giữa 1915 và 1920 khi có nhiều hấp dẫn về cái mới trong thế giới
này. Vào thời đó, cái mới vẫn còn có ảnh hưởng. Thậm chí bây giờ ông ấy vẫn còn
tiếp tục tuyên truyền về điều đó.
Bây giờ, trên
trái đất này, chỉ có một khả năng. Mọi tín ngưỡng đều đã lại gần nhau tới mức nếu
một tín ngưỡng nói rằng một mình nó là tín ngưỡng đúng duy nhất thì điều đó lập
tức sẽ tạo ra hoài nghi. Đã có thời khi một tín ngưỡng công bố rằng nó là đúng
và vô tư và đúng theo nghĩa tuyệt đối, người ta đã có khả năng tin cậy vào điều
đó. Bây giờ tuyên bố như vậy chỉ tạo ra không tin cậy; tuyên bố như vậy sẽ chỉ
là triệu chứng của điên khùng. Nó sẽ chứng tỏ rằng người tuyên bố không phải là
người thông minh cho lắm, rằng người đó không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, và
rằng người đó là giáo điều và cuồng tín.
Bertrand
Russell đã viết ở đâu đó rằng ông ấy chưa bao giờ thấy một người thông minh nào
nói theo ngôn từ tuyệt đối. Nhưng người thông minh sẽ dứt khoát là ngần ngại để
tự khẳng định mình theo cách này. Chỉ người ngu mới có thể mang tính khẳng định
như vậy. Russell đang cố gắng nói rằng chỉ người dốt nát mới có thể công bố điều
gì đó là chân lí tuyệt đối.
Khi tri thức
tăng lên, những công bố tuyệt đối như vậy không thể được đưa ra. Trong thời đại
này, nếu bất kì ai cố gắng khẳng định rằng một tín ngưỡng đặc biệt nào đó là
duy nhất đúng, người đó sẽ làm hại cho tín ngưỡng đó nhiều lắm. Tương tự, nếu
người ta nói rằng, "điều tôi đang nói đây là tuyệt đối mới," thế thì
đấy cũng là điều ngớ ngẩn.
Nhiều điều được
công bố là mới, nhưng khi chúng được xem xét theo chiều sâu, người ta thấy rằng
chẳng có gì mới cả. Cũng những điều đó có thể được nói dưới nhiều dạng, nhưng
khi những dạng này được đặt cạnh nhau, khi cách ăn mặc bên ngoài bị lột bỏ đi,
cái tìm được phía dưới là cùng điều cũ. Vậy, ngày nay, chẳng tuyên ngôn nào
thiên về tính cổ điển hay tính mới có thể có nghĩa.
Theo bất kì
cách nhìn nào, tôn giáo của tương lai, tôn giáo sẽ ảnh hưởng tới mọi người, tôn
giáo sẽ được mọi người theo và kính trọng, sẽ là tôn giáo về vĩnh hằng. Nó sẽ
không là mới cũng chẳng cũ. Không ai có thể làm nó mới, mà nó cũng không bao giờ
trở thành cũ.
Những người gọi
tôn giáo là cũ đều có từ cũ để diễn đạt nó; nhưng người đã gọi nó là mới thì có
từ mới. Bây giờ chúng ta không muốn níu bám lấy bất kì từ nào. Đó là lí do tại
sao tôi dùng từ của mọi tín ngưỡng. Bất kì từ nào cũng có thể được dùng trong
việc hiểu biết. Đôi khi tôi nói về cách nghĩ cũ để cho có lẽ một số người có thể
hiểu qua đó; đôi khi tôi nói tới cách nghĩ mới cho những người có thể hiểu theo
cách này. Và đồng thời, tôi muốn nhắc bạn rằng chân lí không thể cũ hay mới được.
Chân lí là vĩnh
hằng như bầu trời trong đó cây lớn lên, phát triển, ra hoa và rồi chết. Cây
cũng trở nên già; chúng cũng có thời thơ ấu và thời thanh niên. Nhưng tất cả điều
này đang xảy ra trong bầu trời. Chúng ta đã gieo một hạt mầm, nó đã mọc lên. Việc
mọc này là tuyệt đối mới, nhưng bầu trời mà trong đó nó đã mọc lên thì vĩnh hằng.
Cây đã lớn lên, trở nên già, và gần chết. Cây đã trở nên già, nhưng bầu trời mà
trong đó nó đã mọc lên, bản thân nó có trở nên già không? Nhiều cây đã tới và
đi, nhưng bầu trời vẫn còn lại đó mãi mãi - vĩnh hằng, còn nguyên vẹn, không đổi.
Thế thì chân lí giống như bầu trời; lời giống như cây. Chúng được gieo xuống,
chúng mọc lên, chúng ra lá, ra hoa, kết quả, và thế rồi chúng chết, chúng đổ xuống
đất, trong khi bầu trời vẫn còn nơi nó hiện hữu.
Cái cũ và cái mới
cả hai đều nhấn mạnh vào lời, nhưng tôi không muốn đặt bất kì nhấn mạnh nào vào
lời. Tôi chỉ muốn đặt nhấn mạnh vào bầu trời trong đó hoa của lời nở ra, chết
đi và trở nên mất hút, không dấu vết nào của chúng còn lại ở đâu nữa. Vậy, theo
quan điểm của tôi, chân lí là vĩnh hằng và ở ngoài cái mới và cái cũ. Nó là
siêu việt.
Bất kì điều gì
chúng ta nói hay nghĩ hay tạo ra, đều sẽ tới và đi, nhưng chân lí sẽ vẫn còn
nơi nó hiện hữu. Vậy những người nói rằng chân lí là cũ là người dốt nát, bởi
vì chân lí không trở nên cũ đi. Còn những người nói, "Chúng ta có chân lí
mới, chân lí độc đáo," cũng là người dốt nát, bởi vì chân lí không thể độc
đáo mà cũng chẳng mới. Giống như bầu trời, chân lí chỉ hiện hữu.
Tôi tuyên bố
con đường thứ ba này, con đường của vĩnh hằng, là con đường cho tương lai. Tại
sao? Bởi vì tuyên ngôn này về cái vĩnh hằng sẽ cắt xuyên qua hầu hết những cái
tinh vi do nhiều tín ngưỡng tạo ra. Thế thì chúng ta sẽ nói, "Vâng, những
cây này phát triển hướng lên trời và những cây này cũng phát triển trong bầu trời."
Cây đạt tới bầu trời vô tận, nhưng bầu trời vẫn nguyên vẹn. Vẫn có nhiều không
gian trên trời. Cây của chúng ta không thể lấp đầy mà cũng chẳng thể làm rỗng
được không gian đó. Chúng ta không cần trong ảo tưởng rằng một cây riêng lẻ nào
đó có thể lấp đầy toàn bộ bầu trời.
Vậy, không một
lời, ý nghĩ hay nguyên tắc nào của chúng ta có thể lấp đầy bầu trời chân lí.
Bao giờ cũng còn đủ không gian. Hàng triệu và hàng triệu Mahavira và Phật, nếu
được sinh ra, cũng sẽ không khác biệt. Dù tre có thể dầy đặc đến thế nào, nó
cũng không tạo ra cái gì khác biệt cho bầu trời. Cái bao la của bầu trời không
thể được đo bằng kích cỡ của tre. Nhưng các nhành cỏ có đó dưới tre thậm chí
không biết tới bầu trời; chúng chỉ biết tới tre. Với chúng, tre khổng lồ đến mức
chúng chưa bao giờ có thể hình dung được rằng còn có thể có cái gì lớn hơn tre.
Trong tình huống
khó khăn này, tất cả các tín ngưỡng đều đứng trước chúng ta, và chúng đã lôi
kéo tâm trí chúng ta theo đủ mọi hướng. Có những tư tưởng cổ và mới, và vẫn có
những tư tưởng mới hơn đang được sinh ra mỗi ngày. Tất cả đều lôi kéo con người
hướng tới chúng. Bởi vì việc kéo đồng thời này, hoàn cảnh con người đã trở
thành bất lực. Người đó không biết phải làm gì. Con người gần như đã xoay xở để
đứng dậy, nhưng người đó không có dũng cảm để bước theo bất kì hướng nào. Bất
kì hướng nào người đó lấy để có thể định bước đi một bước cũng chẳng thành vấn
đề, người đó vẫn còn hoài nghi; người đó không có bất kì tin cậy nào. Tất cả những
người có thể đã tạo ra tin cậy nào đó trong mình, bản thân họ đã đặt mình vào
điều kiện vô tin cậy.
Theo bất kì
cách thức nào, tin cậy cũng đã được tạo ra trong quá khứ, bây giờ nữa nó cũng
đang được tạo ra theo cùng cách. Koran tiếp tục nói rằng điều đó là đúng,
Dhammapada nói rằng điều đó là đúng. Một cách tự nhiên, bất kì ai nói rằng mình
là đúng sẽ phải nói điều khác là sai. Người khác cũng nói tương tự. Vậy, một
người nghe cả hai người này nghĩ rằng tất cả họ là sai. Tại sao? Bởi vì người
nói rằng mình là đúng chỉ là một người, nhưng những người gọi người đó là sai
là năm mươi. Tác động của việc bị gọi là sai sẽ mạnh đến mức tiếng nói của người
đang hô lên rằng người đó là đúng đang bị mất dần trong tiếng nói tập thể của
năm mươi người hô lên người đó là sai.
Với mọi người
trong số năm mươi người này hoàn cảnh là một, bởi vì mỗi người lại nói rằng
mình là duy nhất đúng. Bây giờ, nếu năm mươi người gọi ai đó là sai và người đó
khẳng định là mình đúng, thì thính giả tự nhiên sẽ lấy quan điểm chống lại tất
cả những điều vô nghĩa này.
Yêu cầu đồng thời
này để thu được sự tin cậy của một người chỉ gây lẫn lộn. Tình huống này có thể
được sửa chữa chỉ theo một cách. Nên có một phong trào toàn thế giới trong đó
không ai sẽ nhấn mạnh hay khẳng định rằng cái này đúng hay cái kia sai. Thay vì
vậy, mọi người sẽ nói rằng còn đứng bất hoạt là sai và bước đi là đúng. Với điều
này, cái nhìn rộng hơn là cần thiết, cái có khả năng chỉ ra một cách đúng đắn
cách người ta có thể tiến thêm theo hướng mà mình đã chọn. Điều này là rất khó.
Dễ dàng là người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo hay người Jaina giáo bởi
vì các hướng dẫn là rõ ràng trong mọi tín ngưỡng. Dễ dàng quen thuộc với chỉ một
tín ngưỡng.
Một thanh niên
tới tôi vào tám ngày trước đây. Anh ta nói anh ta là người Mô ha mét giáo và rằng
anh ta muốn là sannyasin. Thế là tôi đã khuyên anh ta hãy là một sannyasin.
Nhưng anh ta nói rằng mọi người của anh ta sẽ đàn áp anh ta nếu anh ta làm như
vậy. Tôi bảo anh ta, "Bạn trở thành sannyasin, nhưng tôi không nói rằng bạn
thôi là người Mô ha mét giáo. Trong khi vẫn còn là người Mô ha mét giáo, bạn có
thể trở thành một sannyasin." Anh ta nói, "Cái gì! Tôi có thể vào nhà
thờ Mô ha mét giáo để làm namaz sao" - cách thức cầu nguyện Mô ha mét giáo
- "với những bộ quần áo da cam của sannyasin sao?" Tôi nói, "Đúng,
bạn sẽ phải làm namaz."
Anh ta nói,
"Tôi đã bỏ làm namaz từ khi tôi nghe nói về thầy. Tôi đang hành thiền thay
vào đó. Tôi đã không đi tới nhà thờ Mô ha mét giáo cả năm nay rồi, và tôi tràn
đầy vui sướng. Tôi thậm chí không muốn đi tới nhà thờ Mô ha mét giáo nữa."
Tôi nói,
"Chừng nào mà bạn chưa hiểu ra rằng không có khác biệt gì giữa thiền và
namaz, tôi nói với bạn rằng bạn vẫn còn chưa hiểu thiền là gì đâu."
Một người như vậy
sẽ phải trở lại nhà thờ Mô ha mét giáo để làm namaz. Rất nguy hiểm mà dứt anh
ta ra khỏi nhà thờ Mô ha mét giáo, bởi vì sau khi dứt anh ta khỏi nhà thờ Mô ha
mét giáo sẽ không thể nào nối anh ta với đền chùa được. Phương pháp dứt anh ta
ra sẽ làm hỏng anh ta theo cách mà anh ta không thể nào được nối với bất kì đền
chùa nào. Do đó, chúng ta không nên khuyến khích bất kì đối kháng nào giữa các
đền chùa, mà chúng ta cũng không nên dựng lên đền chùa mới. Bất kì đâu người ta
muốn tới, người đó nên được tự do tới đó; người đó không nên vẫn còn đứng đấy,
nhưng nên đi.
Viễn cảnh toàn
thể mà tôi đã có trước tôi là thế này: rằng tôi muốn giúp cho mọi người đi theo
khả năng của người đó, giai đoạn tiến hoá của người đó, văn hoá người đó -
tương ứng với điều đã được đồng hoá trong máu của người đó. Thế thì sẽ dễ dàng
hơn cho người đó đạt tới. Do đó, tôi không có bất kì tôn giáo nào của riêng
mình, cũng không có bất kì con đường nào của riêng mình, bởi vì bây giờ chỉ một
con đường hay tôn giáo sẽ không có tác dụng cho tương lai, và một giáo phái tôn
giáo có nghĩa là một con đường.
Ngày nay, một tôn
giáo như vậy là cần, tôn giáo không nhấn mạnh vào con đường đặc biệt nào, tôn
giáo có thể trở thành ngã tư đường cho mọi con đường, tôn giáo có thể nói rằng
tất cả mọi con đường đều thuộc vào nó và tôn giáo có thể yêu cầu mọi người đi
theo con đường mà mình thích. Một tôn giáo như vậy sẽ nhấn mạnh rằng bạn sẽ đạt
tới cùng chỗ từ bất kì đâu bạn bước đi, rằng tất cả mọi con đường đều dẫn tới một
đích, rằng nhấn mạnh duy nhất là ở chỗ bạn chỉ tiếp tục di chuyển và không đứng
yên.
Do đó, tôi
không muốn vạch ra con đường mới trên núi, mà tôi cũng không muốn tạo ra bất kì
triết lí hay tôn giáo mới nào. Đã có đủ con đường, nhưng không có người đi. Đường
nhiều; khách lữ hành rất ít. Đường đã ít nhiều không được dùng trong nhiều năm.
Đã không có bất kì khách lữ hành nào bởi vì chính sự cần thiết trèo lên núi bây
giờ lại đang bị hoài nghi. Có quá nhiều tranh luận và tranh cãi tại chân núi, đến
mức kết quả chỉ làm cạn kiệt và gây hoảng hốt cho cá nhân và làm cho người đó vẫn
còn đứng bất động. Với quá nhiều lẫn lộn tinh thần, không ai có thể bước được.
Tại đây, một điều
cần phải được để ý tới. Tôi không phải là người theo quan điểm chiết trung. Tôi
có xu hướng lựa chọn cái gì làm vui lòng mình. Suy nghĩ của tôi không giống như
suy nghĩ của Gandhi rằng tôi có thể chọn bốn khổ thơ từ Koran và bốn khổ thơ từ
Gita và nói rằng ở mọi nơi cùng điều đã được đề xuất ra. Trong cả hai kinh sách
này điều được nói là khác nhau, không là một. Tôi quả có nói rằng bằng tất cả mọi
con đường người ta có thể đạt tới cùng một đích, nhưng tất cả mọi con đường đều
khác nhau, không là một.
Nếu ai đó định
chỉ ra rằng Koran và Gita đều đang nói cùng một điều, đấy chỉ là mẹo. Cũng rất
thú vị mà để ý rằng Gandhi sẽ đọc Gita và sẽ đọc Koran, nhưng ông ấy sẽ chọn từ
Koran chỉ những chủ điểm không mâu thuẫn với Gita và tránh phần còn lại. Thế
thì cái gì sẽ xảy ra cho những chủ điểm này đã bị bỏ qua? Bất kì cái gì dường
như đi ngược lại niềm tin của bất kì ai sẽ bị Gandhi bỏ qua. Ông ấy sẽ không
bao giờ chấp nhận Koran như một toàn thể, mặc dầu ông ấy chấp nhận Gita như một
toàn thể. Đó là lí do tại sao tôi nói rằng ông ấy là chiết trung. Nếu cái gì đó
phù hợp với Gita được tìm thấy trong Koran, thì nó được chấp nhận. Với điều này
không có khó khăn; bất kì ai cũng sẵn sàng chấp nhận.
Tôi nói rằng
tôi hoàn toàn đồng ý tới chừng mực nào đó rằng Koran là bản dịch sang tiếng A rập
của Gita; không nhiều hơn thế. Đến mức đó thì thậm chí người tin vào Koran cũng
có thể đồng ý. Nhưng sẽ là một thực nghiệm thú vị là yêu cầu một người tin vào
Koran chọn ra vài khổ thơ từ Gita có thể phù hợp với Koran. Bạn sẽ ngạc nhiên
thấy rằng người như vậy sẽ chọn những thứ mà Gandhi chưa bao giờ chọn cả.
Người đó sẽ chọn
các điều rất khác.
Điều này tôi gọi
là chủ nghĩa chiết trung. Nó là chọn lọc, không phải là chấp nhận về cái toàn
thể. Nó cũng giống như việc nói rằng chọn lựa bao giờ cũng là đặc quyền của người
ta, "và nếu bạn cũng đồng ý với việc chọn lựa, thế thì bạn cũng đúng. Bằng
không, chúng tôi đúng về chung cuộc. Khi mà mà bạn còn đồng ý với chúng tôi,
chúng tôi còn nói rằng bạn là đúng, và chúng tôi đang biểu lộ dung thứ nhiều thế."
Đây không phải
là việc làm nhiều. Đây là vấn đề mà việc chấp nhận toàn bộ được cần tới. Nó
không phải là vấn đề dung thứ chút nào. Không phải là người Hindu dung thứ cho
người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo dung thứ cho người Jaina giáo. Dung
thứ bản thân nó là bất lực và đẻ ra bạo hành ở giai đoạn nào đó.
Tôi không nói rằng
Koran và Gita đang nói cùng điều. Koran đang nói điều gì đó hoàn toàn khác. Nó
có giai điệu cá nhân riêng của nó; đó là ý nghĩa của nó. Nếu Koran cũng nói
cùng điều mà Gita nói, thế thì Koran là vô giá trị. Và Kinh Thánh đang nói điều
gì đó khác với cả điều Koran lẫn Gita nói. Mỗi kinh có giai điệu riêng của nó.
Mahavira không nói cùng điều Phật nói; họ nói khác nhau rất nhiều.
Nhưng qua tất cả
các hệ thống khác nhau này, chỗ người ta đạt tới suy đến cùng là một. Đó là lí
do tại sao việc nhấn mạnh của tôi là nhiều vào tính một của cái tối thượng,
không vào tính một của con đường. Việc nhấn mạnh của tôi là vào sự kiện rằng đến
cùng, tất cả mọi con đường đều đạt tới nơi không có phân biệt hay khác biệt gì.
Nhưng từng con
đường rất khác nhau, và đừng ai phạm phải sai lầm nghĩ rằng những con đường này
là một; bằng không người đó sẽ không có khả năng bước trên bất kì con đường nào
trong chúng. Tất cả mọi con thuyền có thể đạt tới bờ đối diện, nhưng đừng ai phạm
phải sai lầm cố gắng ngồi lên hai con thuyền một lúc. Bằng không thuyền sẽ tới,
nhưng người đi trên hai thuyền chẳng bao giờ tới. Người đó sẽ rơi khỏi thuyền
và chết chìm ở đâu đó.
Mọi con thuyền
đều là thuyền. Cho nên nếu người ta chỉ muốn nói về thuyền từ trên bờ, chẳng hại
gì. Nhưng người hành hương sẽ phải chọn con thuyền trước khi người đó có thể bước
vào nó. Tôi chấp nhận tất cả các tôn giáo như những con thuyền khác nhau, nhưng
thuyền phải được chọn.
Rất khó chọn một
con thuyền bởi vì chúng tất cả đều mâu thuẫn lẫn nhau. Một mặt, có Mahavira người
sẽ không sẵn sàng thậm chí giết một con kiến; ông ấy sẽ đặt chân lên đất với sự
cẩn thận nhất. Mặt khác, có Mohammed người đứng đấy với lưỡi kiếm trong tay.
Cho nên bất kì ai nói với bạn rằng Mahavira và Mohammed đang nói cùng điều, người
đó đang nói điều sai. Hai người này không bao giờ nói cùng ngôn ngữ. Họ nói
khác nhau rất nhiều.
Nếu một nỗ lực
được thực hiện để chỉ ra họ là một, sẽ có bất công nghiêm trọng cho người này
hay người kia. Hoặc là lưỡi kiếm của Mohammed sẽ phải bị giấu đi hoặc Mahavira
sẽ phải quên về việc đặt chân lên đất một cách thận trọng để cứu kiến. Cho nên
nếu một người tin tưởng vào Mohammed phải chọn lựa, người đó sẽ cắt bỏ tất cả
những phát biểu của Mahavira chống lại lưỡi kiếm, còn nếu một người tin vào
Mahavira phải chọn lựa, thế thì người đó sẽ lấy đi lưỡi kiếm từ Mohammed hay sẽ
chỉ chọn lựa những điều sẽ hoà hợp với bất bạo hành.
Nhưng điều này
là không công bằng. Do đó tôi không tổng hợp như Gandhi. Tôi không kêu gọi bất
kì tổng hợp tôn giáo nào. Tôi đang nói rằng mọi tôn giáo, với những cá nhân
phân biệt của riêng họ, đều chấp nhận được đối với tôi. Tôi không chọn lựa giữa
họ. Tôi cũng nói rằng bởi vì mỗi tôn giáo mang tính duy nhất cho cá nhân, nên
người ta có khả năng đạt tới.
Tất cả các tôn
giáo đều đã tiến trên con đường của riêng họ, và khác biệt giữa họ chỉ là khác
biệt giữa các con đường. Cũng dường như là trên con đường của tôi có hàng cây
và trên con đường của bạn có đá và đá. Từ hướng mà bạn trèo lên núi chỉ có đá
và đá, còn từ hướng nơi tôi đang trèo lên chỉ có cây và cây. Một con đường khó
khăn hơn và làm cạn sức khi leo lên, với những dốc cao, trong khi con đường
khác đi lên dần dần, tạo ra nhiều đường vòng rộng quanh núi. Con đường sau rất
dài, nhưng nó không làm kiệt sức người leo.
Chắc chắn, mỗi
người leo sẽ mô tả con đường riêng của mình một cách khác nhau, và những khó
khăn phải đối diện trên mỗi con đường sẽ khác nhau cũng như các phương pháp để
giải quyết khó khăn. Vậy, nếu chúng ta nhìn vào thảo luận về con đường, chúng
ta sẽ khó tìm ra bất kì tương đồng nào. Và tương đồng ngẫu nhiên được thấy
không phải là của con đường. Chúng được thấy trong các phát biểu của những người
đã đạt tới đỉnh; chúng không phải là về con đường chút nào.
Mặc dầu các
phát biểu của những người đã đạt tới có thể tương tự nhau, vẫn có khác biệt
trong ngôn ngữ. Các phát biểu có thể bằng tiếng A rập, Pali, Prakit hay
Sanskrit. Các phát biểu sẽ tương tự khi họ nói về mục đích, nhưng những phát biểu
được đưa ra trước khi đạt tới đích sẽ có khác biệt rất thực. Không có nhu cầu
quên về những khác biệt này.
Cho nên tôi
không muốn vạch ra con đường mới, mà tôi cũng không muốn tuyên bố rằng chỉ những
con đường cũ đúng khi đối lại các con đường khác. Tôi muốn nói rằng tất cả các
con đường đều đúng, tuy nhiên chúng có thể khác nhau.
Tâm trí chúng
ta ở mức chúng ta nghĩ tất cả con đường đúng là tương tự nhau. Chúng ta tin rằng
chỉ nếu hai điều tương tự nhau chúng mới có thể đúng. Điều không tránh khỏi là
mọi thứ phải tương tự nhau để là đúng. Chân lí thực tế là ở chỗ nếu hai điều là
tương tự nhau, một điều nhất định chỉ là bắt chước; cả hai không thể là nguyên
gốc. Hoặc cái này có thể là bắt chước hoặc cả hai có thể là bắt chước, nhưng ít
nhất một cái nhất định là bắt chước. Hai vật nguyên gốc nhất định là không
tương tự nhau.
Điều không ngạc
nhiên là có khác biệt giữa con đường của Mahavira và Mohammed. Sẽ là phép mầu nếu
không có khác biệt. Tương tự nhau là điều phi tự nhiên. Hoàn cảnh của Mahavira
tất cả đều rất khác với hoàn cảnh của Mohammed. Những người mà Mohammed đã làm
việc là rất khác với những người mà Mahavira đã làm việc. Hoàn cảnh của những
người mà Mohammed đã làm việc là rất khác với hoàn cảnh của những người mà
Mahavira đã làm việc. Họ khác nhau đến mức không thể nào Mahavira và Mohammed
có cùng một con đường. Thậm chí ngày nay các hoàn cảnh của họ vẫn tiếp tục khác
nhau. Người ta phải lưu tâm tới những hoàn cảnh khác biệt này.
Cho nên tôi
không lo âu về việc vạch ra con đường mới, mà cũng không lo âu để tuyên bố bất
kì con đường cũ nào là đúng và chống lại các con đường cũ khác. Tất cả các con
đường đều đúng - những con đường đã được mở ra, những con đường đang được mở ra
hôm nay và những con đường có thể được mở ra ngày mai.
Nhưng con người
chỉ nên quan tâm tới việc bước đi và không nên đứng đấy mà không quyết định. Một
người vẫn còn đứng bất động trên con đường tốt nhất cũng sẽ không đạt tới,
nhưng một người cứ bước đi cho dù trên con đường sai thì sẽ đạt tới - nếu không
phải hôm nay, thì ngày mai. Vấn đề chính là cứ bước đi.
Nếu ai đó tiếp
tục bước đi, thế thì không khó thay đổi sang đường đúng. Nhưng nếu người ta cứ
còn đứng đấy, thế thì không có khả năng tìm ra liệu người đó đang đứng trên đường
đúng hay không. Chỉ bằng việc bước đi người ta mới có thể tìm ra liệu mình là
trên đường đúng hay đường sai. Nếu bạn đơn thuần tin vào nguyên tắc nào đó
trong khi vẫn dửng dưng, bạn sẽ không bao giờ biết liệu nguyên tắc đó là đúng
hay sai. Nhưng nếu bạn đưa nguyên tắc này vào kiểm tra và bạn thực nghiệm với
nó, bạn ngay lập tức sẽ biết liệu nó là đúng hay sai. Một khái niệm có thể được
kiểm tra chỉ bằng cách thực hiện hành động trên nó, không có cách khác. Cho nên
tôi muốn rằng bạn cứ bước đi. Tôi được chuẩn bị để giúp cho mọi người trên con
đường riêng của mình.
Một cách tự
nhiên, với Mahavira điều này không dễ làm. Ngày nay điều đó dễ hơn, và nó sẽ vẫn
cứ trở nên dễ hơn bởi vì bây giờ gần như không thể tìm ra một người chưa từng
được sinh ra trong hai, bốn hay sáu tôn giáo trong hai, bốn hay sáu lần sinh cuối
của người đó. Cũng như thế giới đã gần lại hơn do việc truyền thông nhanh hơn
trong bẩy trăm năm vừa qua, cho nên cũng ngày càng trở nên có thể hơn cho các
linh hồn để thay đổi tôn giáo và đẳng cấp của họ trong thế giới này. Điều này
là tự nhiên.
Chẳng hạn, hai
nghìn năm trước đây, nếu một brahmin chết, cơ hội chín mươi chín trong một trăm
lần là người đó sẽ không được sinh lại trong gia đình sudra. Vì tâm trí tích luỹ
tất cả những ấn tượng của cuộc sống và ghi nhớ chúng, nên việc đi vào và di cư
của linh hồn hoàn toàn bị qui định chặt chẽ bởi hệ thống đẳng cấp. Đẳng cấp
sudra bị coi như tiện dân. Thành viên của đẳng cấp khác thậm chí sẽ không cho
phép cái bóng của người đó được rơi lên họ, và nếu một cái bóng như vậy mà rơi
vào, thì ngay lập tức họ phải tắm.
Cho nên brahmin
và sudra bị phân tách rất sâu rộng - bởi thung lũng vô tận. Sau cái chết, linh
hồn của brahmin sẽ không có khả năng nghĩ tới lấy việc sinh trong gia đình
sudra - bởi vì tâm trí và các ham muốn của nó, đã rất chống lại bất kì dính líu
nào với đẳng cấp sudra. Do đó, không thể thay đổi đẳng cấp hai nghìn năm trước
đây. Mãi cho tới thời Mahavira, chính hiện tượng hiếm hoi là một người lấy việc
sinh ở các tôn giáo khác nhau. Tiến trình của từng tín ngưỡng tôn giáo đã được
xác định rõ ràng đến mức nó chảy thẳng lên trước như dòng sông bị chắn kĩ.
Không chỉ trong kiếp sống hiện tại của người ta, mà trong việc sinh trước của
người ta nữa thì người ta cũng đã đi bên trong cùng một tín ngưỡng tôn giáo.
Ngày nay, trong
thế kỉ hai mươi này, điều này là không thể được. Cũng như các hoàn cảnh đã ngày
một tự do hơn và được nhìn xa hơn trong thế giới bên ngoài, về bên trong mọi
người cũng đã trở nên tự do hơn và sẵn sàng tiếp thu cái mới hơn. Đấy tất cả là
vấn đề tâm trí. Hiện tại đỡ lúng túng hơn nhiều cho một brahmin để ngồi với một
người Mô ha mét giáo và ăn cùng bữa hơn là trước đây đã thế, và khi thời gian
trôi qua, sẽ không có lúng túng chút nào.
Người mà trong
anh ta cái loại lúng túng này còn chưa trở nên bớt đi thì không phải là người
hiện đại. Tâm trí người đó cổ lỗ năm trăm năm. Với người hiện đại không có lúng
túng chút nào. Ngày nay, sẽ rất ngớ ngẩn thậm chí nghĩ về lúng túng đó. Bởi vì
điều này, các cánh cửa đã trở thành rộng mở cho các linh hồn thay đổi tôn giáo
và đẳng cấp.
Trong năm trăm
năm qua các cánh cửa đã mở ra ngày một rộng hơn. Do điều này, bây giờ có thể
nói ra một số điều. Nếu tôi đã bước đi trên nhiều con đường trong các lần sinh
quá khứ của mình, bây giờ dễ dàng hơn cho tôi để nói về chúng. Vậy, nếu người
tìm kiếm nào đó từ Tây Tạng tới hỏi tôi điều gì đó, tôi sẽ có khả năng hướng dẫn
người đó. Nhưng tôi sẽ có khả năng làm như vậy chỉ nếu vào lúc nào đó, trong
chuỗi sinh quá khứ của mình, tôi đã đi tới biết hệ thống giá trị của Tây Tạng,
nếu bản thân tôi đã biết đến bầu không khí tràn ngập tại đó qua việc đã sống
trong nó; bằng không thì không được. Nếu như tôi nói điều gì mà không kinh nghiệm,
điều đó sẽ chỉ hời hợt. Thế thì nó sẽ không sâu sắc. Bản thân tôi sẽ phải trải
qua một điều đặc biệt để có khả năng nói về nó trong chiều sâu.
Nếu tôi mà
không tự mình làm bất kì lời cầu nguyện nào trong nhà thờ Mô ha mét giáo, việc
nói của tôi về namaz sẽ chẳng có ích gì nhiều. Nhưng nếu bản thân tôi có thời
đã trải qua namaz, thế thì tôi có thể biết rằng người ta có thể có khả năng đạt
tới cùng đích qua namaz như người ta có thể đạt tới bằng lời cầu nguyện Hindu.
Thế thì tôi không trở thành chiết trung. Tôi không nói rằng không có sự khác biệt
giữa namaz và prarthana, lời cầu nguyện Hindu, bởi vì tôi tin rằng người Hindu
và người Mô ha mét giáo phải trở thành một. Các lí do của tôi để nói như vậy là
khác: tôi biết rằng mặc dầu các phương pháp có thể khác, nhưng mục đích là một.
Vậy, tình huống
bây giờ đang thay đổi. Trong một trăm năm tới, sẽ có trao đổi lớn trong các
linh hồn. Cũng như mối quan hệ bên ngoài sẽ tan vỡ, mối quan hệ bên trong cũng
vậy - theo cùng tỉ lệ.
Bạn có thể ngạc
nhiên mà biết rằng những người đã áp đặt những điều kiện nghiêm ngặt lên phương
tiện và phương pháp bên ngoài, thực tế đã làm như vậy chỉ để duy trì biến đổi
bên trong. Với những lí do như vậy, hệ thống đẳng cấp của đất nước này không thể
nào được giải thích hay hiểu một cách khoa học. Ngày nay chúng ta cảm thấy biết
bao nhiêu bất công phải đã được duy trì qua những brahmin cổ đại, những người
mà một mặt đã viết ra Upanishad và mặt khác đã lập kế hoạch để hành xử bất công
với sudra, đẳng cấp thấp nhất. Những điều này dường như mâu thuẫn. Hoặc
Upanishad là sai hoặc chúng đã không thể được viết ra bởi cùng các brahmin người
đã tạo khung cho các qui tắc đạo đức cho cách sống của sudra. Nếu cùng brahmin
đó đã làm điều đó, phải có sai lầm ở đâu đó.
Nhưng sự kiện
là ở chỗ sự thu xếp này đã được phát minh ra bởi cùng các brahmin. Bạn không thể
hình dung nổi rằng cùng Manu người đã cho ra Manu-Smriti, bộ luật xã hội Hindu
bao gồm cả khái niệm về hệ thống đẳng cấp, có thể nhấn đi nhấn lại một cách cao
thượng vào khả năng của con người trở thành điều thiêng liêng. Nietzshe đã nói
rằng không người nào thông minh hơn Manu đã từng được sinh ra trên trái đất.
Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu các phát biểu của Manu về sudra và các đẳng cấp
khác, ông ấy đã tạo ra những rào chắn lớn vô cùng không thể nào vượt qua nổi giữa
các đẳng cấp đến mức không người nào khác đã từng làm được. Chúng ta không có
khả năng làm rung chuyển dinh thự mà con người này đã xây dựng bằng một tay từ
năm nghìn năm trước đây. Trật tự xã hội đó tiếp tục còn chi phối thậm chí ngày
nay.
Ngày nay, tất cả
các giới luật pháp, mọi giới thẩm quyền, toàn bộ giới trí thức và toàn bộ nền
chính trị ở Ấn Độ đều đứng về phía chống lại con người Manu này, người đã chết
năm nghìn năm trước đây. Điều đó chứng tỏ rất khó gạt bỏ hệ thống mà ông ấy đã
bầy ra. Từ Raja Ram Mohan Roy cho tới Gandhi, những người khôn ngoan nhất ở Ấn
Độ trong một trăm năm mươi năm qua đều đã tranh đấu chống lại Manu. Con người
này là một tầm cỡ lớn. Gandhi và Raja Tam Mohan Roy dường như chỉ là thiếu niên
và trẻ con trước ông ấy. Tất cả các hoàn cảnh từ thời Manu đã thay đổi, nhưng vậy
mà vẫn khó loại bỏ ông ấy. Lí do cho điều này là bên trong, và chúng đi vào rất
sâu.
Khái niệm cơ bản
là thế này, rằng nếu ai đó thực hiện namaz trong cuộc sống này, thế thì Manu
nghĩ rằng người đó nên lấy việc sinh lần nữa chỉ trong gia đình Mô ha mét giáo
thực hiện namaz. Bằng không, nếu tín ngưỡng của người đó bị thay đổi trong mọi
lần sinh, thế thì công việc mà có thể đáng được hoàn thành trong ba lần sinh của
con người được sinh trong cùng tín ngưỡng sẽ phải lấy ba mươi lần sinh. Nếu tín
ngưỡng này bị thay đổi trong mọi lần sinh, thì móc nối cũ trở nên bị mất. Mọi
lúc người này thay đổi con đường, người đó phải bắt đầu từ ABC. Người đó không
thể được nối với tín ngưỡng cũ của mình. Nếu một người được sinh ra trong gia
đình Mô ha mét giáo trong lần sinh quá khứ và nếu trong lần sinh này người đó
được sinh ra trong gia đình Hindu, người đó sẽ phải bắt đầu từ ABC lặp lại.
Công việc được làm trong lần sinh trước sẽ vô dụng.
Điều đó sẽ giống
như một đứa trẻ học lớp một rồi bỏ trường trong sáu tháng và tham dự lớp khác
mà tại đó nó bắt đầu từ đầu, và thế rồi nó thay đổi sang trường thứ ba nơi nó lại
bắt đầu lại lần nữa. Khi nào thì việc học hành của nó sẽ hoàn hoàn tất? Nó sẽ vẫn
còn chỉ ở lớp một.
Cho nên khái niệm
của Manu rằng một người nên được sinh ra lặp đi lặp lại theo cùng tín ngưỡng để
làm cho người đó có khả năng bắt đầu từ nơi người đó đã bỏ lại trong lần sinh
trước là rất có giá trị. Điều này có thể xảy ra chỉ nếu hệ thống này được làm rất
chặt và cứng nhắc, không lỗ hổng nào, không ngoại lệ nào. Nếu chỉ đến mức thế
này là được phép - rằng sẽ không có vấn đề gì nếu một brahmin cưới một gia đình
sudra - thế thì Manu là đủ thông minh để thấy rằng nếu người ta có thể cưới một
gia đình sudra, đâu là khó khăn trong việc lấy việc sinh vào trong gia đình
sudra? Nếu một brahmin, bằng việc cưới một người vợ sudra, có thể cho cô ấy đứa
con, thế thì tại sao người đó không thể lấy việc sinh qua một người mẹ sudra?
Không có phản đối logic trong trường hợp đó.
Do đó, nếu người
ta bị ngăn cản không lấy việc sinh như vậy, thì người đó cũng sẽ phải bị ngăn cản
không cho việc sinh như vậy. Hạn chế lớn như vậy đã được áp đặt lên hôn nhân. Nếu
những hạn chế này được nới lỏng dù chỉ một li, toàn thể hệ thống đã được xây dựng
sẽ bị rối loạn tồi tệ.
Nhưng nó đã trở
thành như vậy. Bây giờ sẽ rất khó để đưa nó vào trật tự lần nữa - không chỉ khó
khăn, điều đó sẽ là không thể được. Toàn bộ tình huống là đến mức điều đó không
thể có được. Bây giờ chúng ta sẽ phải tìm ra phương pháp tốt hơn, tinh vi hơn
phương pháp Manu đã phát minh ra. Manu đã rất thông minh, nhưng hệ thống của
ông ấy rất thô - và một hệ thống thô thiển sẽ chứng tỏ bất công cho con người.
Những hạn chế xã hội là ở ngoài rất nhiều, mặc dầu mục đích của chúng là để điều
chỉnh cái bên trong. Bây giờ điều này sẽ không có tác dụng. Nó nhất định tỏ ra
khó khăn vào ngày mai nếu không phải hôm nay. Nó sẽ trở thành giống như áo bó
cho xã hội.
Bây giờ chúng
ta sẽ phải làm những thực nghiệm trên bình diện mịn hơn. Điều đó có nghĩa là
chúng ta sẽ phải làm namaz và prarthana có tính cách linh động để nếu một người
đã rời bỏ namaz trong lần sinh quá khứ, người đó có thể bắt đầu prarthana trong
lần sinh này chỉ từ chỗ người đó đã bỏ lại với namaz. Namaz và prarthana nên đổi
lẫn cho nhau được. Tai người ta không nên bị ước định quá nhiều bởi tiếng chuông
đền chùa đến mức âm thanh của ajan, lời gọi buổi sáng trong nhà thờ Mô ha mét
giáo, được nghe vào buổi sáng dường như lạ lẫm với người đó. Hài hoà bên trong
nào đó sẽ phải được phát minh ra giữa chuông đền Hin du và âm thanh của ajan.
Điều này không
khó. Với tương lai, sẽ có cần thiết cho tính tôn giáo mới, không phải là tôn
giáo mới. Toàn bộ khái niệm của Manu đã sụp đổ; các tín ngưỡng của Phật và
Mahavira đã mất. Nếu người ta muốn thực nghiệm với cùng nền tảng cũ, người đó sẽ
thất bại. Gurdjeff đã thử hết mức độ mình để làm điều đó; Krishnamurti lao động
cho điều này trong bốn mươi năm qua, nhưng chẳng cái gì xảy ra cả.
Mọi hoàn cảnh
đã thay đổi. Trong những hoàn cảnh thay đổi này, một khái niệm được quan niệm
tuyệt đối mới là cần thiết. Khái niệm mới này còn chưa được thực nghiệm cho tới
giờ. Đó là khái niệm về tính tôn giáo mới mà trong đó mọi tôn giáo, như chúng
hiện thế, đều đúng. Mắt chúng ta bị cố định vào mục đích, và nhấn mạnh phải đặt
vào việc cứ bước đi. Người ta có thể bước trên bất kì con đường nào, nhưng sự gần
gũi của tất cả các con đường sẽ là ở mức người ta có thể cắt ngang qua con đường
khác một cách dễ dàng. Khoảng cách giữa các con đường sẽ không lớn đến mức người
ta sẽ phải trước hết đi tới lối vào của con đường mới nếu người đó muốn đổi đường.
Mọi sự nên là sao cho nếu người đó bỏ con đường này, người đó có thể cắt ngang
sang con đường khác, đường nối con đường nọ với con đường kia.
Mục đích bao giờ
cũng được nối với tất cả mọi con đường, nhưng việc móc nối các con đường lại
chưa bao giờ có đó. Không có khó khăn trong việc đạt tới mục đích qua bất kì
con đường nào, nhưng bây giờ thời đại đang ở mức người ta sẽ không có khả năng
bước chỉ trên một con đường. Cuộc sống đang trở nên ngày một bị phá vỡ hàng
ngày, ở bên trong cũng như ở bên ngoài.
Một người sinh
ra và lớn lên trong gia đình Hindu có thể phải trải qua toàn bộ cuộc sống còn lại
của mình ở châu Âu. Người khác sinh ra ở Mĩ có thể trải qua cuộc sống của mình
trong rừng Ấn Độ. Một người lớn lên ở London có thể trải qua phần còn lại cuộc
sống mình ở Việt Nam. Điều này sẽ xảy ra lặp đi lặp lại bây giờ. Bầu không khí
sẽ thay đổi hàng ngày cả về vật chất và tâm lí. Những thay đổi này sẽ nhanh
chóng đến mức chúng ta sẽ phải xây dựng các con đường nối các đường cái lại.
Koran và Gita
không phải là một, nhưng mối nối có thể được thực hiện để nối cả hai. Cho nên
tôi muốn trải rộng mạng lưới các sannyasin, những người tạo nên mối móc nối
này. Các sannyasin này sẽ làm namaz trong nhà thờ Mô ha mét giáo, nói lời cầu
nguyện trong nhà thờ Ki tô giáo và làm kirtan trong đền thờ nữa. Họ sẽ bước
trên con đường của Mahavira, thiền như Phật đã làm, và thậm chí thực nghiệm với
tín ngưỡng Sikh, do vậy tạo ra các mối nối - một chuỗi sống các móc nối con người.
Tất cả sẽ được hướng theo một cảm giác tôn giáo - rằng tất cả các tôn giáo, mặc
dầu tách biệt, đều là một. Không phải là tất cả các tôn giáo là một và không thể
tách rời, nhưng mặc cho chúng tách rời, chúng vẫn là một trong bước đi hài hoà
bên trong của chúng hướng tới mục đích. Chúng là một theo nghĩa là chúng đưa bạn
hướng tới siêu tâm thức.
Vậy, công việc
của tôi là công việc thuộc kiểu thứ ba. Phương pháp như vậy chưa bao giờ được
đi theo trước đây. Những nỗ lực nhỏ có thể đã được tiến hành theo hướng này,
nhưng chúng tất cả đều thất bại. Ramakrishna đã cố gắng làm điều đó theo con đường
nhỏ, nhưng thực nghiệm đó cũng không phải rất cổ. Gần hai trăm năm trước đây,
ông ấy đã đi bước đầu tiên theo hướng này. Nhưng nỗ lực của Ramakrishna cũng thất
bại. Vivekananda lại cho nỗ lực này mầu sắc Hindu hoàn toàn.
Nanak cũng đã
thử cái gì đó theo hướng này vào quãng năm trăm năm trước đây, nhưng điều đó
cũng đã không thành công. Nanak đã thu thập trong cuốn Guru Grantha các giáo huấn
của tất cả các thánh nhân Hindu và Mô ha mét giáo. Nanak quen hát, còn Mardana
chơi tambura. Ông ấy nói rằng nếu người Hindu hát, ít nhất người Mô ha mét giáo
cũng nên chơi tambura để cho đôi khi bài ca và nhạc cụ có thể trở thành một.
Nanak tới Mecca
và cũng cầu nguyện trong nhà thờ Mô ha mét giáo, nhưng tất cả nỗ lực của ông ấy
để tích hợp hai tôn giáo đã thất bại. Pantha, một giáo phái mới của người Sikh,
đã được tạo ra bằng việc thu thập tất cả những điều ông ấy đã nói trong Guru
Grantha. Một số vị thánh Sufi đã thử đưa hai tôn giáo này lại gần nhau, nhưng tất
cả mọi nỗ lực của họ vẫn còn bị hàm chứa trong những điều sơ bộ và đã không
phát triển.
Có lí do cho điều
này: thời đại và con người còn chưa được phát triển đầy đủ vào thời đó. Nhưng
bây giờ thời điểm đã tới, và những nỗ lực qui mô lớn có thể được tiến hành.
Cho nên chiều
hướng của tôi là ở hướng thứ ba. Tôi không muốn tán tỉnh cái cũ, tôi cũng không
muốn tạo ra cái gì mới. Nhưng nhấn mạnh và khăng khăng của tôi là vào việc bước
- trong thực hành bất kì cái gì có đó trong cái cũ và cái mới.
Chính tự do của
bạn là chọn cách đi của mình.
Liệu có thể
kinh nghiệm cái vĩnh hằng, cái bất tử mà về chúng Thầy đã nói, với điều kiện và
hoàn cảnh ngày nay không?
Kinh nghiệm về
cái vĩnh hằng đã có đó cho tất cả mọi người rồi. Không khó khăn gì trong việc
có kinh nghiệm này. Khó khăn là ở việc cho cách diễn đạt kinh nghiêm đó. Phật
đã có kinh nghiệm đó về cái vĩnh hằng, nhưng Mahavira đã diễn đạt nó theo ngôn
ngữ cổ còn Phật diễn đạt trong ngôn ngữ mới. Tôi muốn diễn đạt nó trong ngôn ngữ
của bản thân cái vĩnh hằng.
Bạn muốn hỏi liệu
tôi đã có kinh nghiệm đó bẩy trăm năm trước đây không. Có, tôi gần như đã có
kinh nghiệm đó rồi, nhưng tôi đang cho việc diễn đạt nó ngày hôm nay. Khi người
ta định hôm nay diễn đạt bất kì cái gì đã biết từ bẩy trăm năm trước đây, sẽ
không có khác biệt gì trong việc biết, nhưng sẽ có khác biệt rất lớn trong việc
diễn đạt nó. Bẩy trăm năm trước nó đã không thể được nói theo cách này; không
có lí do cho nó.
Tình huống này
giống như việc xuất hiện của cầu vồng trong mùa mưa. Đây là một sự kiện rất thú
vị. Bạn có thể thấy cầu vồng từ nơi bạn đang đứng. Cầu vồng phụ thuộc vào ba điều:
giọt nước mùa mưa phải hiện diện trong khí quyển và hơi nước cũng phải có đó.
Thế rồi, các tia sáng mặt trời phải đi qua chúng từ một góc đặc biệt, và bạn phải
ở một chỗ đặc biệt để thấy cầu vồng. Nếu bạn đi ra khỏi chỗ đó, cầu vồng sẽ bị
mất. Trong việc tạo ra cầu vồng, không chỉ tia sáng mặt trời và giọt nước gặp
nhau, mà cả việc đứng của bạn ở một chỗ đặc biệt cũng là điều bản chất. Không
chỉ tia sáng mặt trời và nước tạo ra cầu vồng, mà mắt bạn từ một chỗ đặc biệt
cũng đóng góp nhiều như vậy. Bạn là một trong ba thành tố của cầu vồng. Nếu bất
kì một trong ba điều này bị bỏ đi, thế thì cầu vồng sẽ bị mất.
Vậy, bất kì khi
nào chân lí được khải lộ, ba điều xảy ra. Thứ nhất, kinh nghiệm về chân lí có
đó. Nếu kinh nghiệm này không có đó, việc diễn đạt nó không có đó, việc diễn đạt
nó là không thể được. Bất kì chỗ nào bạn đứng và bất kì cái gì hạt mưa làm, nếu
mặt trời không lên, không thể có cầu vồng. Do đó, giống như sự tồn tại của mặt
trời, sự tồn tại của kinh nghiệm về chân lí là điều bản chất. Và điều thứ hai,
bất kì khi nào có một kinh nghiệm về chân lí, sự hiện diện của thính giả phải
cũng có đó. Nhưng nếu người diễn đạt không đứng tại một góc đặc biệt, chẳng cái
gì có thể được diễn đạt.
Đây là điều đã
xảy ra cho Meher Baba. Trong khi diễn đạt, Meher Baba đã không thể nào đứng tại
đúng góc để cho cầu vồng có thể được tạo ra giữa kinh nghiệm của ông ấy và
thính giả. Vậy, nhiều thánh nhân vẫn còn im lặng. Có lí do cho việc vẫn còn im
lặng, và đó là ở chỗ họ không có khả năng đứng tại một chỗ, tại đó họ có thể tạo
ra góc đúng cho việc phóng chiếu cách diễn đạt của họ. Điều này cũng là cần thiết.
Bằng không, nếu diễn giả không đứng tại đúng chỗ, kinh nghiệm về chân lí sẽ vẫn
còn ở bên này còn thính giả sẽ vẫn còn ở bên kia. Nhưng nếu diễn giả ở đúng chỗ
và có khả năng nói, nhưng thính giả, người cũng là một yếu tố cần thiết, lại vắng
mặt, thế thì không cách diễn đạt nào sẽ xảy ra cả.
Bẩy trăm năm
trước đây, bất kì ai tôi sẽ nói với cũng đều là một phần của việc nói của tôi.
Cho nên khi tôi nói với các bạn, tôi không thể nói cùng điều mà tôi đã nói với
thính giả đó, người đã tồn tại bẩy trăm năm trước đây. Và nếu bạn không ngồi
trước tôi mà là ai đó khác, thì thế nữa tôi cũng không thể nói cùng một điều -
bởi vì bạn là phần cơ bản của điều tôi đang nói, cũng chịu trách nhiệm về nó
như tôi vậy. Không có bạn, cùng điều không thể được nói ra. Vậy, khi tất cả ba
yếu tố này trở thành hài hoà với cùng bước sóng, việc diễn đạt là có thể.
Nếu có một chút
bỏ sót nhỏ, mọi thứ bị mất đi, cầu vồng bị tan biến. Thế thì mặt trời không làm
gì cả và những giọt nước trong bầu không khí cũng chẳng làm gì cả. Nếu thậm chí
một trong những thành tố này của cầu vồng ra đi, thì cầu vồng tan biến ngay lập
tức.
Cách diễn đạt
chân lí giống như sự tồn tại của cầu vồng. Mọi khoảnh khắc nó đều ở vào điểm sắp
mất đi. Thậm chí một hơi chút dịch chuyển của điều này hay điều điều khác cũng
sẽ tạo ra sự biến mất của nó. Nếu thính giả dịch chuyển, cầu vồng bị mất. Nếu
diễn giả dịch chuyển, việc nói sẽ thành vô dụng.
Vậy, bẩy ngày
trước tôi đã không có khả năng nói cùng điều tôi nói hôm nay, mà tôi cũng không
có khả năng lắp lại điều tôi đang nói với bạn hôm nay trong bẩy ngày nữa bởi vì
mọi thứ sẽ thay đổi từ đó.
Mặt trời sẽ vẫn
còn như cũ; nó sẽ cứ cho ánh sáng. Nhưng với ngoại lệ mặt trời, chân lí, hai
thành tố cần thiết khác, diễn giả và thính giả, bao giờ cũng có khả năng thay đổi.
Do đó, kinh
nghiệm là điều của bẩy trăm năm trước, nhưng việc diễn đạt là của hôm nay. Thậm
chí gọi nó là hôm nay cũng không đúng. Người ta nên nói khoảnh khắc này. Thậm
chí ngày mai, điều đó sẽ không thể là một. Việc diễn đạt sẽ cứ thay đổi mọi khoảnh
khắc.
Nếu có thể, xin
Thầy mô tả điều xảy ra cho linh hồn sau cái chết, nó đi về đâu, nó làm gì và nó
ở điều kiện nào trong khoảng giữa việc từ bỏ thân thể này và lấy thân thể khác?
Trong mối liên
hệ này, Thầy đã thảo luận trước đây về tự do của linh hồn để lấy việc sinh bất
kì khi nào nó muốn vậy. Xin Thầy làm sáng tỏ cho chúng tôi liệu linh hồn cũng
có tự do để chọn liệu có từ bỏ hay không từ bỏ thân thể.
Sẽ dễ dàng hơn
nếu chúng ta hiểu hai hay ba điều về khoảng giữa việc từ bỏ một thân thể này và
lấy thân thể khác. Trước hết, sự kiện là ở chỗ các kinh nghiệm về khoảng giữa
đó là tựa giấc mơ. Bất kì khi nào người ta kinh nghiệm điều gì đó, vào khoảnh
khắc đó kinh nghiệm là điều xảy ra thực. Nhưng khi người ta nhớ lại nó trong kí
ức, nó trở thành giống như giấc mơ; nó là tựa giấc mơ bởi vì không có việc dùng
giác quan. Cảm giác của bạn và tin chắc của bạn rằng việc xảy ra là thực là tới
từ các giác quan và thân thể bạn.
Nếu tôi cảm thấy
rằng tôi đang thấy bạn, nhưng thế rồi tôi cố gắng chạm vào bạn và thấy bạn
không thể được chạm tới, thế thì tôi nói rằng bạn là ảo ảnh: bạn không có ở
đây. Nếu tôi cố gắng chạm vào cái bàn này và nếu tay tôi xuyên qua nó mà không
chạm vào cái gì, thế thì tôi sẽ nói cái bàn này là không thực, hay rằng tôi
đang trong ảo tưởng nào đó, hay rằng nó là ảo giác nào đó. Việc kiểm tra thực tại
này là sự xác nhận của giác quan chúng ta.
Nhưng sau khi
đã từ bỏ một thân thể và trước khi lấy thân thể khác, chúng ta không có giác
quan. Bản thân thân thể không có đó, cho nên bất kì cái gì bạn có thể kinh nghiệm
trong trạng thái đó đều tựa như mơ, dường như bạn thấy trong mơ. Khi chúng ta
thấy trong mơ, chúng ta không hoài nghi thực tại của chúng. Điều này rất thú vị.
Sau một thời gian nào đó chúng ta đi tới hoài nghi thực tại của nó, nhưng chúng
ta chưa bao giờ hoài nghi nó trong mơ. Mơ dường như thật. Cái mà là thực đôi
khi gây cho chúng ta hoài nghi liệu điều được thấy có là thực hay không, nhưng
trong mơ hoài nghi như vậy không bao giờ được tạo ra. Tại sao? Bởi vì mơ sẽ
không dung thứ cho một thoáng hoài nghi nhỏ nhất; bằng không nó sẽ lập tức tan
vỡ.
Mơ là điều tinh
tế đến mức chút ít hoài nghi cũng đủ giết chết nó. Chỉ cảm thấy rằng nó chỉ là
giấc mơ là đủ để phá vỡ nó, và thế thì bạn sẽ thức tỉnh. Để mơ tiếp tục, cần phải
không có tới một chút xíu hoài nghi. Bởi một thoáng hoài nghi, thậm chí mơ sâu
nhất cũng sẽ bị tan vỡ. Vậy, chúng ta cảm thấy tất cả những cái được thấy trong
mơ là việc xảy ra thực. Mơ dường như thực hơn bản thân thực tại. Cái thực không
bao giờ có thể dường như thực thế, bởi vì nó có chỗ cho hoài nghi. Vào lúc mơ,
mơ dường như thực nhất.
Trong mơ, thậm
chí có rõ ràng rằng cái gì đó là không thể được thì nó cũng không có vẻ như vậy.
Chẳng hạn, trong mơ người nào đó đi qua. Bỗng nhiên người đó biến thành con
chó. Bạn thậm chí không nghĩ, "Làm sao điều này có thể xảy ra được?"
Nó đã xảy ra và nó là có thể. Không có hoài nghi. Sau khi tỉnh dậy, bạn có thể
nghĩ, "Điều vô nghĩa này là gì vậy?" nhưng bạn không nghĩ thế chừng
nào bạn chưa ra khỏi giấc mơ. Mọi thứ đều hợp lí trong giấc mơ; không có mâu
thuẫn.
Ai đó là bạn của
bạn và bỗng nhiên người đó nhắm súng vào bạn. Trong tâm trí bạn không xuất hiện
điều này để bạn nghĩ, "Làm sao người bạn lại có thể làm điều này?"
Trong giấc mơ, mọi điều không thể có lại trở thành có thể. Sau khi tỉnh dậy,
nhiều nhất bạn có thể nhớ giấc mơ đã xảy ra chỉ vào giờ cuối. Thông thường giấc
mơ trở nên bị mất đi trong vòng năm đến bẩy phút, nhưng những người rất hay tưởng
tượng thì có thể, nhiều nhất, nhớ không nhiều hơn một giờ. Bằng không, chúng ta
sẽ có nhiều kí ức mơ đến mức chúng ta sẽ không có khả năng sống. Trong một giờ
tâm trí trở nên tự do với làn khói mơ.
Cũng tương tự với
điều kiện này là khoảng giữa hai thân thể. Bất kì điều gì xảy ra trong thời kì
đó đều dường như là tuyệt đối thực - thực đến mức chúng ta có thể chẳng bao giờ
biết thực tại như vậy bằng mắt và giác quan mình. Đó là lí do tại sao không có
kết thúc cho hạnh phúc của các thần. Các thiếu nữ thiên đường họ gặp mới thực với
họ thế - thực đến mức không phụ nữ nào được thấy qua giác quan của chúng ta có
thể được đến vậy. Đó cũng là lí do tại sao không có kết thúc cho khổ của các
vong. Khổ của họ xảy đến họ thực thế, đến mức họ chưa bao giờ làm trong cuộc sống
thực.
Cho nên điều
chúng ta gọi là cõi trời và địa ngục chỉ là các cuộc sống mơ sâu. Sự mãnh liệt
của ngọn lửa thiêu đốt trong địa ngục không bao giờ có thể được tìm thấy trong
cuộc sống thực, mặc dầu nó là ngọn lửa rất bất nhất. Trong kinh sách, có các mô
tả về ngọn lửa địa ngục, mà trong đó bạn bị ném vào mà vẫn không cháy. Nhưng
người ta chẳng bao giờ nhận biết về cái bất nhất này - rằng nếu bạn bị ném vào
trong ngọn lửa mãnh liệt đó, bạn sẽ không có khả năng chịu đựng cái nhiệt đó; ấy
vậy mà bạn vẫn không bị thiêu cháy theo bất kì cách nào. Sự bất nhất này, rằng
"mình đang bị thiêu đốt trong ngọn lửa này," rằng lửa thật ghê rợn, rằng
việc thiêu đốt là không thể nào chịu đựng nổi và vậy mà "mình chẳng bị
thiêu đốt chút nào," chỉ được hiểu sau khi người ta ra khỏi kinh nghiệm tựa
giấc mơ này.
Trong khoảng giữa
hai lần sinh, có hai kiểu linh hồn. Một kiểu là linh hồn ác. Với họ khó tìm ra
một bụng mẹ cho lần sinh nữa. Tôi gọi những linh hồn như vậy là pretas, vong
ác. Kiểu kia bao gồm các linh hồn thiện. Tôi hỏi họ là devas - các thần. Với những
linh hồn như vậy cũng khó tìm ra bụng mẹ thích hợp cho lần sinh nữa.
Giữa hai kiểu
này là đại đa số các linh hồn trong đó không có khác biệt gì cơ bản, nhưng chỉ
khác về tính cách, nhân cách và cấu trúc tâm trí. Họ thuộc cùng một kiểu; chỉ
kinh nghiệm của họ sẽ khác.
Các linh hồn ác
trở lại trái đất với những kinh nghiệm đau đớn đến mức việc nhớ tới chúng bản
thân nó cũng đã là địa ngục rồi. Những người đã có khả năng hồi tưởng lại những
kí ức như vậy đều mô tả các hoàn cảnh trong địa ngục. Đấy chỉ là mảnh đất mơ;
nó không tồn tại ở đâu cả, nhưng người nhớ lại đã trở về từ đó nói rằng ngọn lửa
mà người đó đã thấy ở đó thì không thể nào tìm thấy sự so sánh trong thế giới
này, rằng bạo hành và thù hận mà chúng ta thấy ở đây thì không là gì nếu so với
điều người đó đã thấy ở đó. Kinh nghiệm về cõi trời cũng hệt như vậy. Khác biệt
chỉ là khác biệt về các giấc mơ ưa thích và đau đớn. Khoảng giữa này là thời kì
đầy mơ.
Điều này là rất
triết lí nhưng đúng, rằng nó chỉ giống như giấc mơ. Chúng ta có thể hiểu giấc
mơ là gì bởi vì chúng ta thấy chúng hàng ngày. Bạn thấy một giấc mơ chỉ khi các
giác quan của bạn bị cạn kiệt. Theo nghĩa sâu hơn, điều này nghĩa là khi mối
quan hệ của bạn với các giác quan bị phá vỡ, bạn chìm vào trong cuộc sống mơ.
Mơ hoặc là về địa ngục hay cõi trời hay trộn lẫn. Vài người chỉ thấy giấc mơ về
địa ngục, vài người chỉ mơ về cõi trời.
Bạn có thể nghĩ
rằng bạn đã thấy một giấc mơ trong tám giờ ban đêm. Nhưng nếu thời kì này được
kéo dài tới tám năm, bạn cũng sẽ không biết, bởi vì không có nhận biết về thời
gian. Giờ trôi qua không được đo rõ ràng trong kí ức. Nhưng chiều dài của thời
gian có thể được đo bằng những thay đổi xảy ra trong khoảng giữa các kí ức của
thân thể quá khứ và kí ức của thân thể hiện tại.
Nhưng đây chỉ
là ước đoán. Trong khoảng giữa đó, không có nhận biết rõ ràng về sự kéo dài thời
gian. Bởi vì điều này, Ki tô giáo đã nói rằng sẽ có địa ngục vĩnh viễn. Điều
này được nói trên cơ sở của kí ức của những người đã thấy một giấc mơ rất dài.
Đấy là giấc mơ dài đến mức khi họ quay lại, họ không có kí ức về bất kì mối
quan hệ nào giữa thân thể này và thân thể trước đó. Đó là lí do tại sao họ nói
rằng địa ngục là vĩnh viễn và rất khó để thoát ra khỏi nó. Các linh hồn thiện
thấy các giấc mơ hạnh phúc còn các linh hồn ác thấy các giấc mơ bất hạnh. Chỉ bởi
vì các giấc mơ của họ hiện hữu nên họ cảm thấy bất hạnh và khổ.
Tại Tây Tạng,
khi một người đang trên giường chết, một số chủ đề nào đó được nói cho người
đó. Điều này được thực hiện để tạo ra chuỗi mơ. Khi một người chết, người đó được
bảo rằng bây giờ người đó nên bắt đầu quán tưởng điều đang được gợi ý. Vậy, một
bầu không khí mới, một hoàn cảnh mới, đang được tạo ra.
Điều đó là hay,
nhưng khoa học. Giấc mơ có thể được tạo ra từ bên ngoài. Nếu bạn đang ngủ ban
đêm và nếu chiếc khăn ướt được áp vào chân bạn, bạn sẽ có một kiểu mơ đặc biệt.
Nếu nhiệt được áp vào thông qua lò sưởi, một kiểu mơ khác được tạo ra. Nếu lạnh
được áp vào chân bạn, bạn có thể mơ rằng trời đang mưa hay rằng bạn đang bước
trên băng. Nếu nhiệt được áp vào chân bạn, bạn có thể mơ rằng bạn đang bước
trong sa mạc, rằng có mặt trời nóng như thiêu và bạn đang toát mồ hôi đầm đìa.
Vậy, mơ có thể
được tạo ra từ bên ngoài. Nhiều giấc mơ được tạo ra như kết quả của các điều kiện
bên ngoài. Nếu tay bạn đè nặng lên ngực, bạn có thể cảm thấy rằng ai đó đang ngồi
lên ngực bạn, mặc dầu đấy chỉ là tay của chính bạn.
Vào lúc chết -
trong khi từ bỏ thân thể này cho một thời kì cuộc sống mơ dài sắp tới, sau đó
linh hồn có thể hay không thể lấy một thân thể mới - một phương pháp đã được
phát minh ra ở Tây Tạng để tạo ra dãy mơ. Họ gọi điều này là bardo - trung ấm.
Đấy là một quá trình mà trong đó người Tây Tạng chuẩn bị đầy đủ cho một người để
kinh nghiệm cái chết và cuộc sống sau cái chết. Bất kì sức đẩy tốt nào đã có đó
trong cuộc sống của người ta sẽ được phát sinh trong khi người này vẫn còn sống.
Cũng vậy, những nỗ lực như thế được thực hiện trong suốt cuộc sống nữa.
Tôi đã nói với
các bạn trước đây rằng sau khi tỉnh dậy khỏi giấc ngủ thì giấc mơ của các bạn
được nhớ lại quãng một giờ. Tương tự, sau khi lấy một lần sinh mới, trong quãng
sáu tháng, cho tới độ tuổi sáu tháng, gần như mọi điều đều được nhớ. Sau đó nó
dần dần trở nên mất đi. Những người rất giầu tưởng tượng hay rất nhạy cảm có thể
nhớ lâu hơn chút ít, nhưng những người đã làm các nỗ lực và người đã thực nghiệm
với việc nhận biết trong kiếp trước có thể nhớ được một thời gian lâu.
Hệt như vào buổi
sáng trong một giờ làn khói tựa giấc mơ vẫn quanh quẩn bên bạn, tương tự, vào
quãng một giờ trước khi đi vào giấc ngủ ban đêm, cái bóng của giấc mơ bắt đầu
thắng thế bạn.
Theo cùng cách
này, cái bóng của cái chết cũng bắt đầu rơi xuống bạn trong thời kì sáu tháng
trước cái chết của bạn. Cái chết của bạn là tiên đoán được trong sáu tháng đó.
Khi cái bóng của cái chết bắt đầu bao quanh bạn trong sáu tháng cuối đó, thì việc
chuẩn bị cho cái chết được bắt đầu.
Một giờ đó trước
giấc ngủ, khi cái bóng mơ bắt đầu rơi xuống bạn, là điều rất dễ bị ảnh hưởng.
Không thời gian nào khác mang tính dễ ảnh hưởng như vậy, bởi vì vào lúc đó bạn
có hoài nghi rằng bạn vẫn tỉnh và cái bóng của giấc ngủ đã xảy đến cho bạn. Đó
là lí do tại sao tất cả các tôn giáo trên thế giới đều qui định một giờ trước
khi ngủ ban đêm và một giờ sau khi dậy buổi sáng là thời gian tốt nhất cho cầu
nguyện. Nó được biết là sandhyakal - thời gian chạng vạng và thời gian rạng
đông.
Sandhyakal
không có nghĩa là thời gian khi mặt trời lặn hay mọc. Nó có nghĩa thời gian khi
từ thức tỉnh bạn đang chuyển vào giấc ngủ và từ giấc ngủ bạn chuyển vào thức tỉnh.
Thời kì ở giữa này là sandhyakal. Mặc trời chẳng liên quan gì tới nó, nhưng nó
đã trở thành được gắn với mặt trời từ những ngày khi việc lặn của mặt trời có nghĩa
là thời gian đi ngủ và việc mọc của mặt trời là thời gian thức. Nhưng bây giờ mối
liên kết này phải bị phá vỡ bởi vì không ai ngủ vào lúc mặt trời lặn, không ai
dậy cùng mặt trời mọc. Thực tế mà nói, sandhyakal có nghĩa là một giờ trước khi
ngủ và một giờ sau khi dậy. Nó có nghĩa là một thời kì thời gian ở giữa hai
hoàn cảnh thức và ngủ.
Kabir đã gọi
ngôn ngữ của mình là sanhya-bhasha - ngôn ngữ chạng vạng-và-rạng đông. Ông ấy
đã nói rằng chúng ta không nói dường như chúng ta ngủ, chúng ta không nói dường
như chúng ta thức. Chúng ta chỉ ở giữa. Chúng ta trong khó khăn tới mức chúng
ta không nói từ bên trong bản thân mình mà cũng không từ bên ngoài chúng ta.
Chúng ta đang đứng ở giữa, trên vùng biên giới, từ đó chúng ta có thể thấy điều
mà mắt có thể thấy và cũng cả điều mà mắt không thể thấy. Chúng ta chỉ ở tại
ngưỡng. Cho nên điều chúng ta nói bao hàm cả điều không thể được nói cũng như tất
cả những điều có thể được nói. Đó là lí do tại sao ngôn ngữ của chúng ta lại là
ngôn ngữ chạng vạng-và-rạng đông. Nghĩa của nó phải được rút ra rất cẩn thận.
Thời kì một giờ
đó vào buổi sáng và thời kì một giờ vào ban đêm trước khi ngủ là rất có giá trị.
Tương tự, thời kì sáu tháng sau khi sinh và sáu tháng trước khi chết là có giá
trị tương đương. Nhưng những người không biết dùng các thời kì một giờ chạng vạng-và-rạng
đông thì cũng không hiểu tầm quan trọng và giá trị của những thời kì sáu tháng
này.
Khi có những nền
văn minh rất hiểu biết về những điều này, thế thì sáu tháng đầu tiên sau khi
sinh được biết là rất quan trọng. Mọi thứ quan trọng đều có thể trao cho đứa trẻ
trong sáu tháng đầu của cuộc sống. Trong sáu tháng đầu này đứa trẻ là dễ bị ảnh
hưởng và đang trong thời kì rạng đông của nó. Sau đó, điều đó là không thể và
điều đó trở thành rất khó.
Nhưng chúng ta
không thể làm cho nó hiểu bằng việc nói. Và bởi vì chúng ta không biết phương
pháp nào khác ngoài việc nói, nên có khó khăn. Tương tự, sáu tháng trước cái chết
cũng có giá trị. Trong sáu tháng đầu chúng ta không thể làm cho đứa trẻ hiểu việc
nói của chúng ta, và chúng ta không biết khi nào sáu tháng cuối bắt đầu trước
cái chết đã tới. Vậy, chúng ta làm mất cả hai cơ hội.
Nhưng một người
sử dụng đúng một giờ trước giấc ngủ và một giờ sau khi thức sẽ chắc chắn biết
khi nào thời kì sáu tháng đó trước khi cái chết bắt đầu. Người cầu nguyện và
thiền một giờ trước giấc ngủ sẽ rõ ràng có khả năng cảm thấy lúc thời gian chạng
vạng này trước khi cái chết tới. Đây là kinh nghiệm tinh vi và tinh tế đến mức
nó không giống ngủ cũng không giống thức. Kinh nghiệm này tinh vi và khác biệt
đến mức một khi nó được hiểu đúng, người ta có thể trở nên nhận biết về sự bắt
đầu của thời kì sáu tháng trước khi chết - bởi vì thế thì cảm giác về sự chạng
vạng sẽ vẫn còn trong cả ngày. Kinh nghiệm và cảm giác mà trước đó tới cho chỉ
một giờ trước khi ngủ sẽ vẫn còn liên tục và vững chắc trong sáu tháng cuối.
Đó là lí do tại
sao sáu tháng trước cái chết nên được sử dụng đầy đủ cho sadhana. Cùng sáu
tháng này được người Tây Tạng sử dụng cho bardo - cho một kiểu huấn luyện mơ,
trao cho kế hoạch bạn sẽ làm gì sau khi chết. Việc huấn luyện này không thể được
trao chỉ vào khoảnh khắc chết. Nó đòi hỏi chuẩn bị, và chỉ người đã sẵn sàng
trong sáu tháng cuối này mới có thể được huấn luyện trong sáu tháng đầu sau khi
sinh trong cuộc sống mới; bằng không không thể được. Những nguyên tắc được dạy
trong sáu tháng cuối này đặt nền móng cho việc huấn luyện mà có thể trao trong
sáu tháng đầu của việc sinh mới.
Tất cả những điều
này có suy nghĩ khoa học của riêng chúng, các nguyên tắc của chúng và các bí mật
của chúng. Và mọi thứ đều có thể được kiểm tra nữa. Một người đã trải qua việc
huấn luyện này cũng sẽ nhớ điều đã xảy ra trong khoảng giữa hai việc sinh,
nhưng kí ức này là kí ức mơ; nó không thực.
Cõi trời và địa
ngục cũng là kí ức của thời kì mơ. Các mô tả có thể được cho. Chính chỉ trên
nhưng gợi ý như vậy mà khái niệm về cõi trời và địa ngục đã được mọi tôn giáo
rút ra. Các mô tả là khác nhau không phải bởi vì vị trí là khác nhau, nhưng bởi
vì các trạng thái tâm trí của các cá nhân nhớ lại những kinh nghiệm này là khác
nhau. Do đó, khi Ki tô giáo mô tả thiên đường, nó sẽ khác với điều Hindu giáo
mô tả, bởi vì các mô tả tùy thuộc vào các trạng thái khác nhau của tâm thức. Vậy,
người Jaina sẽ mô tả nó cũng khác và Phật tử cũng vậy.
Thực tại, mọi
người sẽ đem lại những câu chuyện khác nhau. Nó ít nhiều giống như khi tất cả
chúng ta ngủ trong cùng một căn phòng và thế rồi dậy và mô tả các giấc mơ của
mình. Chúng ta đã ngủ trong cùng căn phòng; chúng ta ở cùng một chỗ, nhưng các
giấc mơ của chúng ta sẽ khác. Mọi thứ tuỳ thuộc vào con người.
Tất cả các kinh
nghiệm về cõi trời và địa ngục đều mang tính cá nhân, nhưng những tương tự đại
thể có thể được tìm thấy - rằng sẽ có sướng trên cõi trời và khổ dưới địa ngục,
rằng như thế nào đó sẽ là hình và dạng của hạnh phúc. Tất cả các mô tả mà đã được
cho như vậy, theo một cách nào đó, là việc thuật lại trung thành của các trạng
thái tâm thức khác nhau.
Người ta đã từng
hỏi, "Nếu một người có thể chọn việc sinh của mình, người đó cũng có thể
chọn cái chết của mình được chứ?" Tại đây cũng có hai hay ba điều sẽ phải
được ghi nhớ. Tự do chọn việc sinh của người ta có nghĩa là nếu người ta ham muốn
thế thì người đó có thể lấy việc sinh. Đây là tự do thứ nhất của người đã đạt tới
hiểu biết tối cao. Nếu người đó muốn, người đó có thể lấy việc sinh. Nhưng ngay
khi có ham muốn, cảnh nô lệ bắt đầu với chính ham muốn đó.
Tôi đang đứng
bên ngoài toà nhà. Tôi có tự do để đi vào toà nhà nếu tôi muốn. Nhưng ngay khi
tôi đi vào toà nhà, những giới hạn của toà nhà này lập tức bắt đầu ảnh hưởng tới
chuyển động của tôi. Do đó, tự do chọn cái chết không phải là lớn lao như tự do
chọn việc sinh của người ta.
Với một người
bình thường, không có tự do để chọn cái chết bởi vì người đó thậm chí còn không
chọn được việc sinh của mình. Nhưng tự do của người đã hiểu ra để chọn việc
sinh của mình là toàn bộ, và nó là tự do rất lớn theo nghĩa là người đó có thể
cũng từ chối lấy việc sinh nếu người đó muốn vậy. Nhưng một khi việc chọn lấy
việc sinh đã được thực hiện, một số tù túng bắt đầu vào trò - bởi vì người đó
đã chọn các giới hạn. Người đó từ bỏ không gian vô giới hạn và đi vào bước chuyển
chật hẹp. Bước chuyển chật hẹp áp đặt các giới hạn của riêng nó.
Bây giờ người
đó đã chọn một bụng mẹ. Thông thường, người ta không chọn bụng mẹ của mình. Nhưng
khi một người đã hiểu biết chọn, người đó phải làm việc chọn lựa từ hàng trăm
hàng nghìn bụng mẹ như vậy đang có sẵn. Người đó chọn ra từ chúng; từ trong số
những người mà người đó chọn. Nhưng ngay khi người đó chọn, người đó đi vào thế
giới của tù túng. Tất cả các bụng mẹ đều có giới hạn của chúng. Người đó chọn một
người mẹ và một người bố. Trong tiến trình này, người đó đã chọn cùng sự trường
thọ và đã có trứng thụ tinh của bố mẹ mình. Việc chọn lựa đã được thực hiện, và
bây giờ người đó sẽ phải dùng thân thể này.
Nếu bạn ra chợ
và mua một cái máy với bảo hành mười năm, giới hạn được ấn định. Cái máy được
mua có chủ định, cho nên không có vấn đề về cảnh nô lệ. Bạn không nói,
"Tôi đã mua cái máy này, và bây giờ tôi bị nô lệ bởi vì nó chỉ kéo dài mười
năm." Bạn đã chọn với hiểu biết đầy đủ rằng nó sẽ kéo dài trong mười năm,
và do vậy vấn đề chấm dứt. Không có cảm giác đau đớn hay day dứt trong điều
này.
Người lấy việc
sinh một cách có ý thức biết khi nào thân thể sẽ chết, cho nên người đó có nhận
biết về thân thể hướng cái chết. Trong con người như vậy có một loại không kiên
nhẫn, không thấy được trong người thường. Nếu chúng ta nghiên cứu các câu chuyện
về Jesus, chúng ta sẽ cảm thấy rằng ông ấy rất không kiên nhẫn, dường như điều
gì đó đang sắp xảy ra cho ông ấy chỉ trong vài khoảnh khắc. Những người nghe
ông ấy không hiểu khó khăn của ông ấy bởi vì họ không nhận biết nhiều lắm về việc
tiến tới cái chết của riêng mình. Nhưng với Jesus, cái chết đang đứng ngay trước
ông ấy; ông ấy biết khi nào điều đó sắp xảy ra.
Jesus yêu cầu bạn
hoàn thành công việc ngày hôm nay, còn bạn nói bạn sẽ làm nó ngày mai. Thế thì
Jesus bị khó khăn bởi vì ông ấy có thể không có đó ngày mai nữa. Do đó, dù đấy
là Mahavira hay Phật hay Jesus, họ đều vội vã cả. Họ đang chạy với tốc độ lớn bởi
vì trong số bao nhiêu người chết, họ là những người nhận biết về mọi việc. Do
đó, những cá nhân như vậy bao giờ cũng trong vội vã. Cũng chẳng tạo ra khác biệt
gì nếu người đã hiểu ra như vậy có thể sống tới một trăm hay hai trăm năm, bởi
vì bất kì chiều dài thời gian nào cũng là ngắn với họ. Chúng ta không thấy thời
gian ngắn bởi vì chúng ta không biết khi nào nó sẽ hết. Chúng ta thậm chí còn
quên mất rằng nó sẽ hết.
Tự do để chọn
việc sinh của người ta là một tự do rất lớn, nhưng bản thân việc sinh là việc
đi vào trong tù đầy, và mọi giới hạn của tù đầy sẽ phải được chấp nhận. Nhưng một
người như vậy chấp nhận những điều này một cách tự nhiên bởi vì đấy là sự chọn
lựa của người đó. Nếu người đó đi tới tù đầy, người đó không bị mang tới đó;
người đó tự mình tới. Do đó, người đó chìa tay mình ra cho xiềng xích đặt vào.
Trong xiềng xích này không có day dứt, không đau đớn. Người đó ngủ gần tường tối
mà không khó khăn gì bởi vì người đó đã đi vào trong nhà tù từ ý chí tự do của
mình. Người đó có thể đã ở dưới bầu trời rộng mở, nhưng người đó đã tới nhà tù
từ ý chí tự do của riêng mình.
Khi mà nô lệ là
bởi việc chọn lựa thì nó là tự do, nhưng nếu tự do mà không có chọn lựa thì đó
là nô lệ. Tự do và nô lệ là các thực thể phân biệt ranh giới rõ rệt. Nếu chúng
ta đã chọn nô lệ từ ý chí riêng của mình, nó sẽ là tự do, nhưng nếu tự do bị áp
đặt lên chúng ta, nó là nô lệ. Với người đã lấy việc sinh một cách có ý thức, mọi
sự được thấy rất rõ ràng, và do vậy người đó ra quyết định của mình dễ dàng.
Người đó biết rằng mình sẽ sống trong bẩy mươi năm, cho nên người đó quyết định
rõ ràng điều người đó phải làm trong thời gian đó. Người đó chỉ nhặt lấy những
điều người đó có thể hoàn tất; người đó không trải tấm lưới của mình quá xa vào
tương lai. Bất kì điều gì người đó có thể làm ngày mai, người đó sẽ làm - và
người đó sẽ hoàn tất nó; đó là lí do tại sao người đó lại không bao giờ trong
lo âu.
Khi người đó
đang sống, người đó chuẩn bị cho việc chết nữa. Cái chết cũng là sự chuẩn bị
cho người đó. Theo một nghĩa nào đó người đó đang vội vã - khi có liên quan tới
người khác. Tại chỗ có liên quan tới bản thân mình, người đó không vội vã. Với
bản thân mình chẳng còn lại điều gì phải làm cả. Người đó thậm chí có thể chọn
cách mình sẽ chết. Nếu người đó phải chết trong giới hạn của bẩy mươi năm, người
đó có khả năng quyết định đà nào trao cho thân thể - khi nào, thế nào và theo
cách thức nào người đó sẽ chết.
Có một thiền sư
nữ. Bà ấy đã thông báo cho mọi người rằng bà ấy sẽ chết sau sáu tháng. Bà ấy
chuẩn bị cho bản thân mình một giàn thiêu để thân thể bà ấy sẽ được đem đi
thiêu. Vào ngày đã chỉ định bà ấy trèo lên nó, cúi lạy tất cả mọi người đang đứng
quanh bà ấy, và thế rồi một số bạn bè đó đốt lửa giàn thiêu. Khi ngọn lửa tới gần
bà ấy, ai đó trong đám đông hỏi, "Bà có cảm thấy rất nóng không?"
Bà sư cười và
nói, "Các ông ngu làm sao! Thậm chí tại cơ hội cuối cùng này mà các ông
còn hỏi câu hỏi ngu xuẩn thế. Các ông có thể hỏi cái gì đó hữu dụng và quan trọng.
Ta biết và các ông cũng biết rằng nếu ta ngồi bên trong ngọn lửa thì ta sẽ cảm
thấy nóng."
Nhưng đây là chọn
lựa của bà ấy. Bà ấy cười trong khi bà ấy bị đốt cháy. Bà ấy đã chọn thậm chí
khoảnh khắc cái chết của mình, và bà ấy muốn dạy cho các đệ tử đang đứng vây
quanh bà ấy rằng có thể chết trong khi cười. Với những người thậm chí không có
khả năng sống mà cười, thì thông điệp rằng một người thậm chí chết mà cười là rất
quan trọng.
Cái chết cũng
có thể được lập kế hoạch kĩ, nhưng việc chọn lựa sẽ là gì thì sẽ phụ thuộc vào
người đang chọn. Tuy nhiên, đây là tất cả những cái bên trong giới hạn. Nếu tôi
phải còn lại bên trong căn phòng này, tôi có thể quyết định tôi sẽ ngồi trong
góc nào - liệu ngủ ở bên trái hay bên phải; đấy là tự do của tôi. Một người như
vậy thậm chí còn dùng cái chết của mình và dùng mọi thứ trong cuộc sống của
mình. Đôi khi việc dùng như vậy có thể rõ ràng, đôi khi không. Trong thực tế,
người đó lấy việc sinh chỉ để có ích cho người khác. Với bản thân người đó thì
không có nhu cầu. Trở nên có ích cho người khác là mục đích của người đó. Nhưng
rất khó cho chúng ta hiểu những thực nghiệm của người đó. Thông thường, chúng
ta không có khả năng hiểu họ. Bất kì cái gì người đó làm, chúng ta đều không nhận
biết về nó. Nó không thể được thực hiện với hiểu biết của chúng ta.
Bây giờ, một
người như Phật sẽ chẳng bao giờ nói, "Ta sẽ chết ngày mai." Nếu thời
điểm khi người đó phải chết là ngày mai, sẽ vô ích mà đi nói điều đó hôm nay.
Thế thì điều có thể được làm hôm nay cũng sẽ không được làm. Thế thì mọi người
sẽ bắt đầu kêu khóc thậm chí từ hôm nay. Thế thì thậm chí bốn giờ sau cũng
không thể được dùng có ích. Cho nên người như vậy sẽ vẫn còn im lặng trong thời
gian nào đó, nhưng về sau người đó có thể tuyên bố to về cái chết của mình. Tuy
nhiên, người đó sẽ quyết định tương ứng với tình huống thịnh hành.
Từ bụng mẹ tới
bụng mẹ, việc sinh sau khi tự hiểu mình là một cách huấn luyện. Nhưng việc huấn
luyện này không dành cho mục đích của người đã chứng ngộ. Nó là một kỉ luật,
nhưng không vì mục đích riêng của người đó. Chiến lược sẽ phải được thay đổi
thường xuyên bởi vì tất cả mọi chiến lược đều trở thành cũ và nặng gánh và trở
thành khó cho mọi người hiểu.
Chẳng hạn,
Gurdjieff: ông ấy trước hết sẽ buộc bạn phải trả một trăm đô la trước khi ông ấy
trả lời câu hỏi của bạn, trong khi Mahavira thậm chí không chạm tới tiền. Và
Gurdjieff sẽ trả lời chỉ trong một hay hai câu. Nếu câu hỏi khác được hỏi, ông ấy
sẽ làm cho người hỏi phải trả thêm một trăm đô la nữa. Nhiều lần mọi người hỏi
ông ấy đang làm gì. Những người biết ông ấy đều phân vân bởi vì khoảnh khắc này
dường như ông ấy cứ giữ tiền và khoảnh khắc tiếp ông ấy sẽ phân phát nó cho người
khác. Thế thì tại sao lại đòi một trăm đô la?
Gurdjeff nói rằng
để nói cho những người đã coi chỉ tiền mới có giá trị trong cuộc sống thì bất
kì điều gì về Thượng đế mà cho không cũng đều thành vô giá trị. Những người như
vậy không thể đánh giá mọi thứ được nhận mà không phải trả tiền. Gurdjieff ngụ
ý rằng để nhận bất kì cái gì có giá trị, người ta sẽ phải trả cái gì đó để đáp
lại theo cách này hay cách khác. Người mà không sẵn sàng trả cái gì đó thì
không có quyền nhận.
Nhưng mọi người
nghĩ rằng Gurdjieff yêu tiền bởi vì ông ấy sẽ không trả lời nếu không nhận được
trả tiền. Như tôi thấy điều đó, tại phương Tây nơi ông ấy sống, nơi mọi người
chỉ có thể đánh giá theo đồng tiền, chỉ người thầy giáo như vậy mới có thể có
hiệu quả. Ông ấy biết rằng khi bạn đã biểu lộ sẵn sàng để trả tiền cho mọi lời,
thế thì bạn đã biết giá trị của nó. Bạn sẽ chỉ đem về nhà cái mà bạn đã trả tiền
cho nó, không phải cái gì đó được cho không.
Gurdjieff sẽ
làm những điều giống như điều bạn sẽ không chấp nhận. Đệ tử của ông ấy sẽ bị bối
rối. Họ sẽ bảo ông ấy rằng nếu ông ấy hãm bớt những hành động như vậy thì sẽ tốt
hơn. Nhưng Gurdjieff sẽ làm cho họ một cách có hiểu biết và có chủ ý. Ông ấy sẽ
ngồi đấy, và nếu bạn tới gặp ông ấy, ông ấy sẽ làm ra các khuôn mặt cứ như là
ông ấy là kẻ hung đồ. Ông ấy sẽ trông không giống như một thánh nhân chút nào.
Đã từng thực nghiệm một thời gian dài về phương pháp Sufi, ông ấy có thể bỗng
nhiên làm cho mắt mình thành lác và đổi thành biểu lộ láu lỉnh.
Toàn bộ dáng vẻ
của ông ấy thay đổi với sự thay đổi trong góc nhìn của mắt ông ấy. Giữa thánh
nhân và hung đồ không khác biệt gì nhiều về dáng vẻ ngoại trừ trong góc nhìn của
mắt. Ngay khi điều này thay đổi, thánh nhân có thể trông giống như hung đồ và
ngược lại.
Mắt của
Gurdjieff rất gian giảo và thay đổi nhanh chóng. Thậm chí người đang ngồi bên cạnh
ông ấy cũng không biết rằng ông ấy đã làm hoảng hồn người mới tới. Người mới tới
sẽ kinh khiếp đến mức người đó có thể cảm thấy muốn chạy trốn. Khi bạn bè của
Gurdjieff đi tới biết ra điều này, họ đã hỏi ông ấy tại sao ông ấy lại hành xử
theo cách này. Thậm chí trước khi họ đi tới biết điều gì về người mới tới, thì
người mới tới đã sợ hết hồn. Tại sao?
Gurdjieff thế rồi
sẽ giải thích rằng người mới tới sẽ thấy một tên hung đồ trong ông ấy cho dù
ông ấy là thánh nhân; điều đó sẽ mất một số thời gian. Nhưng Gurdjieff không muốn
mình phí thời gian, cho nên ông ấy biểu lộ cho người kia mình đã trở thành cái
gì để tìm kiếm và chỉ dẫn rằng bây giờ ông ấy có thể đi mất, bởi vì ông ấy đã
phí không cần thiết ba hay bốn cuộc thăm viếng của mình chỉ để tìm ra cùng một
điều.
Nhưng nếu người
mới tới vẫn còn không bị xúc động mặc cho những hành vi như vậy, chỉ thế thì
Gurdjieff mới thử làm công việc nào đó với người đó. Vậy, nếu người đó thực sự
tới để biết chân lí, ông ấy sẽ kiên nhẫn đợi và không tới kết luận vội vã.
Cho nên điều đó
tuỳ thuộc vào thầy giáo, cách người đó muốn dạy. Đôi khi thậm chí trong cả đời
mình, bạn vẫn không thể nào biết được mục đích của thầy. Thầy giáo sử dụng mọi
khoảnh khắc của cuộc sống của mình từ lúc sinh tới lúc chết. Người đó thậm chí
không phí hoài một khoảnh khắc. Mọi khoảnh khắc của người đó đều có ý nghĩa sâu
sắc, và nó là một phần của mục đích lớn lao và định mệnh lớn lao.
Xem tiếp Chương 4 – Quay về
Mục lục