Osho - Chiều bên kia cái biết
Chương
2. Tại sao tôi đã tới?
Thầy đã nói rằng nếu người ta nói về
thân thể, Thầy sẽ nói rằng thân thể hướng tới cái chết còn nếu người ta nói về
linh hồn, Thầy sẽ nói, "Bạn chưa hề sinh chút nào." Phật đã nói về
linh hồn, "Nó chỉ như cái bong bóng mà bây giờ không còn nữa. Bản thân ta
không có đó, cho nên ta sẽ đi đâu?" Thế thì cái gì có đó mà là bất tử và
ai không sinh?
Có biển, trên
biển sóng tới rồi đi, nhưng biển vẫn còn như cũ. Sóng không tách rời khỏi biển,
nhưng sóng không phải là biển. Sóng chỉ là hình dạng sinh ra trên biển, chỉ là
hình dáng thành hình rồi chết đi. Sóng mà vẫn còn là sóng mãi mãi thì không thể
được gọi là sóng. Từ 'sóng' có nghĩa là nó chết ngay khi nó được sinh ra. Cái
mà từ đó sóng dậy lên thì bao giờ cũng có đó, nhưng cái dậy lên thì không có
đó. Đây là điệu vũ của phù du trên ngực của vĩnh hằng. Biển không sinh; sóng
đang lấy việc sinh ra. Biển chưa bao giờ chết; sóng bao giờ cũng chết. Khoảnh
khắc sóng biết rằng nó là biển, nó vượt ra ngoài chuỗi sống và chết. Nhưng chừng
nào sóng còn tin rằng nó là sóng, nó vẫn còn trong khả năng của sinh và chết.
Cái mà hiện hữu,
là bất sinh và bất diệt. Từ đâu mà việc sinh sẽ tới? Chẳng cái gì sinh ra từ
cái trống rỗng. Cái chết xảy ra ở đâu? Chẳng cái gì mất đi trong cái trống rỗng.
Cái mà hiện hữu là vĩnh hằng. Thời gian không tạo ra phân biệt cho nó; thời
gian không ảnh hưởng tới nó. Sự tồn tại này không bên trong sự hiểu của chúng
ta bởi vì các giác quan của chúng ta chỉ có thể hiểu hình và dạng. Các giác
quan của chúng ta không thể hiểu thấu cái ở bên ngoài tên và hình.
Điều thú vị là
lưu ý rằng bạn phải đứng trên bờ biển rất thường xuyên và khi quay về sẽ nói rằng
bạn đã thấy biển. Nhưng bạn chỉ thấy sóng, không thấy biển. Biển không thể được
thấy. Điều bạn thấy là sóng. Các giác quan chỉ có thể thấy cái xuất hiện trên bề
mặt. Cái mà ở bên trong thì vẫn còn ở bên ngoài việc hiểu thấu. Các giác quan
thấy hình dạng bề ngoài; cái vô hình bên trong vượt quá sự hiểu của chúng.
Thế giới của
tên gọi và hình dạng được sinh ra chỉ bởi vì các giác quan. Nó không phải là
mang tính tồn tại. Bất kì cái gì có tên và dạng đều được sinh ra và sẽ chết đi
còn cái vượt ra ngoài tên và dạng là vĩnh hằng. Nó không được sinh ra, nó cũng
không chết đi. Cho nên khi Phật nói rằng ông ấy được sinh ra như cái bong bóng,
thì ông ấy đang nói tới hai khía cạnh của bong bóng. Bong bóng chứa cái gì? Nếu
chúng ta đi vào trong bong bóng, chúng ta sẽ thấy rằng một khối lượng rất nhỏ của
cùng không khí tràn ngập khắp mọi nơi vô hạn ở bên ngoài, đang được bao bọc bên
trong màng nước mỏng này. Màng mỏng này đã giam cầm một phần không khí nhỏ, và
phần không khí nhỏ đó đã trở thành bong bóng.
Một cách tự
nhiên, giống như mọi thứ, bong bóng cũng mở rộng. Khi mở rộng ra, nó vỡ tung và
nổ ra. Thế thì không khí ở bên trong bong bóng hợp nhất với không khí bên ngoài
và nước với nước. Nhưng cái đã đi vào sự tồn tại đồng thời là sự tồn tại của cầu
vồng. Chẳng cái gì thay đổi trong không khí hay nước; chúng vẫn còn như chúng
hiện thế. Nhưng đồng thời, một dạng đã sinh ra thì chết đi.
Nếu chúng ta
coi bản thân mình cũng như bong bóng, thế thì chúng ta cũng là những dạng lấy
việc sinh và chết. Cái ở bên trong chúng ta bao giờ cũng đấy, nhưng chúng ta đồng
nhất bản thân mình với bong bóng. Cho nên nếu tôi nhìn vào bạn từ quan điểm của
thân thể, tôi sẽ nói rằng bạn hướng cái chết và đang chết dần. Từ khoảnh khắc bạn
được sinh ra, bạn đã bắt đầu chết, và bạn đã không làm gì khác hơn ngoại trừ việc
chết. Bong bóng có thể lấy bẩy khoảnh khắc để nổ, nhưng bạn lấy bẩy mươi năm để
nổ.
Trong luồng vô
tận của thời gian, không có khác biệt giữa bẩy khoảnh khắc và bẩy mươi năm. Mọi
khác biệt đều do tầm nhìn hạn hẹp của chúng ta. Nếu thời gian là vô tận không bắt
đầu và không kết thúc, thế thì có gì khác biệt giữa bẩy khoảnh khắc và bẩy mươi
năm? Nếu thời gian là một lượng xác định, chẳng hạn một trăm năm, thế thì bẩy
khoảnh khắc sẽ rất nhỏ còn bẩy mươi năm sẽ là khoảng rất dài. Nhưng nếu không
có giới hạn về cả hai đầu, nếu không có bắt đầu lẫn kết thúc, thế thì không có
khác biệt giữa bẩy khoảnh khắc và bẩy mươi năm. Bao nhiêu khoảnh khắc để bong
bóng nổ cũng không quan trọng.
Ngay khi nó
sinh ra, nó bắt đầu nổ rồi. Đó là lí do tại sao tôi mô tả thân thể như hướng
cái chết. Với thân thể tôi ngụ ý cái biểu lộ qua sinh với tên và dạng. Bởi linh
hồn tôi ngụ ý cái vẫn còn lại cho dù cái tên và dạng đã mất đi. Khi không có
tên và dạng như vậy, thế thì nó vẫn hiện hữu. Bởi linh hồn tôi ngụ ý biển cả
còn bởi thân thể tôi ngụ ý sóng. Cần phải hiểu những điều này một cách rõ ràng.
Cái ở bên trong
chúng ta chưa bao giờ chết, cho nên ở bên trong chúng ta cảm thấy rằng
"Mình sẽ không bao giờ chết." Chúng ta thấy rằng hàng trăm nghìn người
đang chết nhưng vậy mà chúng ta vẫn không bị thuyết phục rằng chúng ta cũng sẽ
chết. Trong chiều sâu nhất của chúng ta không có tiếng vọng rằng "Mình nữa
sẽ chết." Mọi người chết trước chính mắt chúng ta và vậy mà cảm giác bên
trong về tính bất tử vẫn cứ còn đấy. Trong những khoảnh khắc sâu sắc hơn chúng
ta bao giờ cũng nhận biết rằng "Mình sẽ chết." Chúng ta biết rằng những
sự kiện chỉ ra cái giả tạo của niềm tin này và rằng các biến cố bên ngoài chỉ
ra rằng không thể nào mà "Mình sẽ không chết." Lí lẽ nói rằng nếu mọi
thứ khác đều phải chết, thế thì bạn cũng sẽ chết. Nhưng một tiếng nói nào đó
bên trong vẫn cứ phục vụ cho mọi móc nối với lí lẽ và cứ nói, "Mình sẽ
không chết."
Đo là lí do tại
sao chúng ta không tin rằng chúng ta sẽ chết. Đó là lí do tại sao chúng ta có
khả năng sống trong làn sương mờ của cái chết; nếu không, như chúng ta thường
xuyên bị bao quanh bởi cái chết, chúng ta sẽ chết ngay tức thì. Tại sao chúng
ta lại tin tưởng và chắc chắn về việc sống thế? Niềm tin đó là do cái gì đó bên
trong vẫn cứ bảo chúng ta rằng chúng ta sẽ không chết, bất kể chúng ta có thể
nói nhiều thế nào, hay sự xuất hiện của một cái chết thực tại có thể nói, rằng
chúng ta sẽ chết.
Không người nào
có thể quan niệm nổi về cái chết của riêng mình. Người đó không thể hình dung
được rằng mình sẽ chết. Tuy nhiên người đó càng cố gắng hình dung nhiều đến mức
mình đang chết, người đó vẫn thấy bản thân mình vẫn có đó. Cho dù người đó có
tưởng tượng bản thân mình chết, người đó vẫn thấy rằng mình có đó đang thấy, rằng
mình có đó đang đứng bên ngoài cái chết. Chúng ta không có khả năng đặt bản
thân mình vào bên trong hàm của cái chết cho dù trong tưởng tượng, bởi vì trong
khi tưởng tượng thì chúng ta cứ quan sát từ bên ngoài. Người tưởng tượng vẫn đứng
bên ngoài, cho nên người đó sẽ không có khả năng chết.
Tiếng nói này từ
bên trong là tiếng nói của biển cả. Nó hỏi chúng ta, "Chết ở đâu?" Chết
là điều không biết; vậy mà chúng ta vẫn sợ chết. Nỗi sợ này tới từ tiếng nói của
thân thể, và có lẫn lộn giữa hai tiếng nói đó. Khoảnh khắc chúng ta đồng nhất bản
thân mình với tiếng nói của thân thể, tâm linh chúng ta bắt đầu run rẩy với sự
kiện là thân thể nhất định phải chết. Dù chúng ta có thể cố gắng đến đâu để bác
bỏ điều này hay tìm kiếm sự giúp đỡ của khoa học hay phát minh ra hệ thống y tế
hay bao quanh chúng ta bằng các bác sĩ trị liệu nổi danh, thân thể vẫn không một
khoảnh khắc nào xác nhận rằng "Mình sẽ sống." Thân thể không có cảm
giác về cái bất tử đó; nó biết rằng hàng ngày nó đang chết.
Thân thể biết rằng
nó là bong bóng, nhưng chúng ta biết rằng chúng ta không phải là bong bóng. Khoảnh
khắc người ta đồng nhất mình với bong bóng, mọi căng thẳng của cuộc sống bắt đầu.
Không người nào mang tính bất tử làm điều đó bên trong chúng ta mà lại đồng nhất
bản thân mình với sóng bởi vì điều đó đưa tới khó khăn. Đồng nhất này là dốt
nát; việc thoát khỏi đồng nhất này là tri thức. Chẳng cái gì thay đổi cả; mọi
thứ vẫn còn lại như nó trước đây. Thân thể vẫn còn ở nơi nó hiện hữu; linh hồn
cũng còn ở nơi nó hiện hữu. Chỉ ảo tưởng là biến mất. Thế thì chúng ta biết rằng
khi thân thể sẽ chết đi thì chúng ta không phải sợ hãi, bởi vì không có nhu cầu
phải sợ hãi. Thân thể nhất định sẽ chết. Sợ là hữu dụng khi có khả năng được cứu
thoát. Nhưng trong tình huống không có khả năng nào được cứu, thật là vô dụng để
mà trở nên sợ hãi.
Khi người lính
bước ra chiến trường, khi người đó lần đầu tiên rời khỏi nhà mình, người đó
tràn ngập với kinh hoàng. Trên chiến trường nữa người đó cũng kinh hoàng. Nhưng
khi bom bắt đầu dội lên người đó, người đó lại trở nên bạo dạn, bởi vì thế thì
mọi khả năng được cứu thoát đều đã bị phá huỷ. Một người như vậy thậm chí có thể
chơi bài ở chỗ liên tục bị bom đạn. Và người đó là người bình thường; chẳng có
gì đặc biệt về người đó cả. Nhưng đây là tình huống duy nhất. Trong tình huống
này, nỗi kinh hoàng về cái chết là vô nghĩa. Cái chết sắp xảy ra đến mức không
còn vấn đề về sự tồn tại.
Trên chiến trường,
có khả năng sống sót nào đó bởi vì một số người chết trong khi số khác lại sống
sót, và do vậy nỗi kinh hoàng nào đó còn lại. Nhưng trên cánh đồng chết thì thậm
chí một chút xíu khả năng đó cũng không có đó. Vào khoảnh khắc của cái chết,
cái ảo tưởng rằng "Mình là thân thể" bỗng nhiên biến mất. Nỗi kinh
hoàng cái chết biến mất bởi vì không có lối thoát. Thế thì sự kiện thân thể chết
là điều chắc chắn, định mệnh. Đó là số mệnh của thân thể; không có cách nào cứu
nó.
Khoảnh khắc người
ta nhận ra rằng cái chết là bản chất của thân thể, bỗng nhiên vấn đề trở thành
rõ ràng rằng cái ở bên ngoài thân thể chưa bao giờ sinh và do vậy không có vấn
đề về cái chết của nó. Vậy, cũng với linh hồn nữa, hoảng hốt tan biến, bởi vì
không có lí do gì để mà sợ cái không thể nào chết được. Nỗi sợ nảy sinh là do
thân thể và linh hồn trở thành bị đồng nhất với nhau. Nó nảy sinh bởi vì tiếng
nói bên trong nói, "Mình sẽ không chết," còn tiếng nói bên ngoài lại
nói, "Mình chắc chắn chết!" Những tiếng nói này trở nên lẫn lộn.
Chúng ta không nhận biết rằng hai giai điệu khác nhau này quyện lẫn vào nhau,
và chúng ta lắng nghe chúng cứ dường như chúng là giai điệu của cùng một nhạc cụ.
Đó là sai lầm.
Trong dốt nát của
mình bao giờ cũng có nỗi hoảng sợ về cái chết, nhưng chúng ta cứ sống dường như
không có cái chết. Mỗi khoảnh khắc người dốt nát lại sống cứ dường như không có
cái chết, nhưng người đó vẫn nhận biết rằng cái chết có thể xảy ra vào bất kì
lúc nào. Người đó sống ở hai mức khác nhau. Cuộc sống cho người đó đã chẻ ra
thành hai phần: chu vi đã trở nên tách rời với trung tâm; sóng đã trở thành
tách rời với biển; dạng đã trở thành tách rời với vô dạng. Tuy nhiên, người ta
không thể chạy thoát khỏi cái chết. Điều ngạc nhiên là với việc biết của chúng
ta, một thứ cứ tự nó xuất hiện rằng nó là ảo tưởng. Bởi việc biết của chúng ta,
chỉ đau đớn hợp lí là dừng lại.
Shankaracharya
bao giờ cũng lấy thí dụ về chiếc dây thừng trông có vẻ như con rắn trong bóng tối.
Nhưng thí dụ này là không chính xác bởi vì bằng việc tới gần bạn có thể biết rằng
nó là dây thừng. Và một khi bạn biết rằng nó là dây thừng, dù bạn có ở xa nó đến
bao nhiêu, nó vẫn trong không giống con rắn.
Nhưng ảo giác của
cuộc sống không giống thế. Ảo giác của cuộc sống giống như chiếc que bị dìm vào
trong nước. Trong nước nó sẽ có vẻ như bị cong, nhưng khi bạn rút nó ra khỏi nước,
nó lại thẳng. Nếu bạn lại dìm nó vào nước, nó lại trông thành cong. Thế rồi nếu
bạn nhúng tay mình vào nước bạn sẽ thấy rằng que vẫn thẳng, nhưng nó trông vẫn
có vẻ cong. Chỉ bởi việc biết của bạn rằng nó là thẳng, cái vẻ xiên của que
không biến mất. Nhưng với việc biết của bạn, bạn không còn hành xử cứ dường như
là trong ảo giác rằng nó bị cong nữa.
Ảo tưởng của
chúng ta về cuộc sống không giống như ảo tưởng về chiếc dây thừng trông giống
như con rắn, nhưng giống như ảo tưởng về chiếc que thẳng có vẻ cong ở trong nước.
Chúng ta biết rất rõ rằng cái que không cong, nhưng chỉ có vẻ thế thôi. Cái que
thậm chí có vẻ cong ngay cả với các nhà khoa học vĩ đại nhất, người đã thực
nghiệm và người biết rằng bằng việc nhúng cái que vào nước thì nó không trở
thành cong. Vậy, cái dáng vẻ vặn vẹo này là do giác quan của chúng ta. Tri thức
của chúng ta chẳng liên quan gì với nó cả.
Do đó, khác biệt
là thế này: rằng bạn sẽ không tin rằng cái que cong, mà nó chỉ có vẻ là cong
thôi. Vấn đề được chia thành hai mức khác nhau. Tại mức của việc biết, cái que
là thẳng. Tại mức của việc thấy, nó là cong. Không có ảo tưởng trên cả hai mức
này.
Tại mức độ của
việc sống có thân thể là bên ngoài và tại mức độ sự tồn tại có atma - linh hồn.
Với người biết, thì thế giới này không bị mất đi. Với người đó thế giới chỉ là
hệt như nó hiện hữu cho bạn. Có lẽ, với người đó thế giới này còn rõ ràng hơn
trong viễn cảnh và dáng vẻ của nó. Chẳng có gì bị mất đi cho người đó cả, và
người đó không trong bất kì ảo tưởng nào. Người đó biết rằng hình dạng được
sinh ra do giác quan và giống như chiếc que có vẻ cong trong nước. Bởi vì các
tia sáng bị cong và thay đổi trong khi đi vào nước, nên cái que cũng có vẻ
cong. Trong không trung, các tia sáng không bị cong, cho nên cái que có vẻ thẳng.
Cái que không cong nhưng các tia sáng cong khi đi qua nước. Do đó, chúng ta thấy
cái que như bị bẻ gập lại.
Sự tồn tại vẫn
như nó hiện hữu, nhưng trong khi đi qua các giác quan của chúng ta thì tia sáng
của tri thức trở nên bị cong. Tia sáng của tri thức thay đổi do trung gian mà
qua đó mọi thứ được biết. Nếu tôi đeo kính xanh, mọi thứ sẽ trông thành xanh.
Khi tôi bỏ kính ra, tôi thấy rằng mọi thứ là trắng. Nếu tôi đeo kính vào, tôi
thấy mọi thứ là xanh. Tôi biết rằng mọi thứ xuất hiện mầu xanh là do kính, cho
nên tôi sẽ không trong ảo tưởng thêm nữa. Nhưng tôi có thể tiếp tục cứ đeo kính
và mọi thứ sẽ tiếp tục xuất hiện là mầu xanh. Tuy nhiên, mặc dầu tôi sẽ biết rất
rõ rằng linh hồn - bản thể - là bất tử, tri thức rằng thân thể là hướng cái chết
cũng vẫn tiếp tục.
Mặc cho hiểu biết
của tôi rằng sự tồn tại của biển là vĩnh hằng, trò chơi của sóng vẫn cứ tiếp tục.
Nhưng bây giờ tôi biết rằng nó xuất hiện như vậy là do kính. Kính là mắt của
giác quan, còn điều bạn thấy qua chúng thì không nhất thiết là điều thực.
Đó là lí do tại
sao những phát biểu của những người như Phật, Mahavira hay Jesus được đưa ra từ
hai bình diện khác nhau - một của linh hồn và một của thân thể. Khó khăn của
chúng ta là ở chỗ chúng ta đang lẫn lộn cả hai bình diện bên trong mình, thế
thì một cách tự nhiên chúng ta cũng lẫn lộn các phát biểu của họ. Đôi khi Phật
nói cứ dường như là ông ấy là thân thể. Ông ấy nói, "Ananda, ta khát. Đem
nước lại đây." Linh hồn không bao giờ khát. Chính thân thể mới cảm thấy
khát. Bây giờ Ananda có thể nghĩ rằng thân thể không có đó chút nào, đấy chỉ là
cái tên và hình dạng, chỉ là bong bóng, "Cho nên làm sao nó có thể trở nên
khát được?" Một khi bạn đã biết rằng không có thân thể, thế thì cơn khát tới
từ đâu?
Thế rồi ngày
hôm sau, khi Phật nói, "Ta không sinh chút nào cho nên ta sẽ không bao giờ
chết," điều đó tạo ra khó khăn cho người nghe. Khó khăn của người nghe là ở
chỗ người đó nghĩ rằng với tri thức thì sự tồn tại sẽ thay đổi. Thực tế, bằng
việc biết, sự tồn tại không thay đổi; chỉ động thái của người ta mới thay đổi.
Khi Phật nói rằng
ông ấy khát, ông ấy chỉ nói rằng thân thể ông ấy khát - rằng thân thể này, cái
là bong bóng của tên tuổi và hình dáng, là khát, và nếu nước không được trao
thì nó sẽ sớm nổ tung. Nhưng khó khăn của người nghe là ở chỗ bởi vì người đó
đang sống trong trạng thái lẫn lộn nên người đó không có khả năng phân biệt
phát biểu nào đang tới bình diện nào, cho nên người đó lẫn lộn nghĩa của chúng
nữa.
Simone Wei đã
viết một cuốn sách có tên Cấp bậc của ý nghĩa. Con người càng vĩ đại, người đó
càng sống trên những mức độ vĩ đại khác nhau vào mỗi lúc. Người đó phải sống
như thế bởi vì người đó phải nói từ mức độ của những người mà người đó gặp. Bằng
không, mọi việc nói đều trở thành vô nghĩa. Nếu Phật nói với bạn từ mức độ cao
nhất của ông ấy, điều đó sẽ vô dụng. Bạn sẽ coi ông ấy là điên. Điều thông thường
xảy ra là những kiểu người này thường bị coi là điên. Lí do cho điều đó là ở chỗ
bất kì điều gì họ nói đều có vẻ như đã được người điên nói ra. Do vậy, nếu họ
nói từ mức độ của họ, họ sẽ bị qui là điên khùng.
Nếu họ phải nói
từ mức độ của bạn, họ sẽ phải bước xuống. Họ sẽ phải bước xuống mức độ nơi bạn
có thể hiểu họ. Thế thì họ sẽ không có vẻ là điên. Vậy họ sẽ phải nói từ nhiều
mức độ hiện có trong số những người tới với họ.
Người ta có thể
nói rằng nhiều người mà Phật nói cho sẽ tới ông ấy dưới dạng tấm gương. Mọi tấm
gương này đều tạo ra hình ảnh tách bạch riêng của họ về Phật, và hình ảnh là
trung thành như bề mặt của bản thân tấm gương. Hình ảnh phải sánh đúng với
gương. Vậy, một chiếc gương lồi sẽ mở rộng ảnh ra trong khi chiếc gương lõm làm
ngắn nó lại. Nếu điều này mà không như vậy, thì gương sẽ không hài lòng, và thế
thì gương sẽ phải bị đập ra hay thay đổi.
Đó là lí do tại
sao các phát biểu của những người như Phật được bắt gặp trên nhiều mức độ khác
nhau. Đôi khi chỉ trong một phát biểu sẽ có nhiều mức. Điều này là vì khi một
người như Phật bắt đầu nói, ông ấy làm như vậy từ mức độ riêng của mình và khi
ông ấy dừng nói, ông ấy đã đi xuống mức độ nơi bạn đang hiện hữu. Nhiều lần
trong một câu có hành trình dài - bởi vì khi ông ấy bắt đầu nói thì nó là từ mức
nơi ông ấy đang ở. Ông ấy bắt đầu với những trông mong lớn lao về bạn; thế rồi
dần dần ông ấy phải hạ bớt các trông mong của mình, và trong phát biểu cuối
cùng của mình, ông ấy đạt tới nơi bạn đang hiện hữu.
Mức của ông ấy
và mức của bạn biểu thị cho hai phân chia sâu sắc, nhưng điều này không có
nghĩa là hai mức này là rất xa nhau hay tách biệt hay khác nhau. Chúng giống
như là mức của biển và sóng. Biển đôi khi có thể không có sóng, nhưng sóng
không bao giờ có thể có mà không có biển. Cái vô hình dạng có thể có mà không
có hình dạng, nhưng hình dạng không bao giờ có thể có mà không có cái vô hình dạng.
Nhưng nếu chúng
ta nhìn vào ngôn ngữ của mình, điều thú vị là thấy rằng nó đảo ngược lại. Theo
ngôn ngữ chúng ta, trong từ nirakar, vô hình dạng, lại có từ sakar, hình dạng.
Nhưng vô hình dạng lại không trong từ hình dạng. Trong ngôn ngữ, trong từ vô
hình dạng, thì từ hình dạng sẽ phải có đó; nhưng nó sẽ có đó nếu từ hình dạng
không bao hàm vô hình dạng. Ngôn ngữ do chúng ta tạo ra, nhưng trong sự tồn tại
tình huống là đảo ngược lại. Trong sự tồn tại có thể có vô hình dạng mà không
có hình dạng, nhưng không thể có hình dạng mà lại không có vô hình dạng.
Tất cả các từ của
chúng ta đều giống thế. Trong từ ahimsa, bất bạo lực, thì từ himsa, bạo lực là
cần thiết. Nhưng trong từ bạo lực, thì bất bạo lực lại không cần thiết. Tuy
nhiên, trong cuộc sống điều thú vị là để ý rằng để cho bạo lực tồn tại, thì bất
bạo lực là cần thiết; nó là điều không tránh khỏi. Nhưng bất bạo lực có thể có
đó mà không có bạo lực. Chúng ta tạo ra ngôn ngữ và chúng ta tạo ra nó theo nhu
cầu của mình. Với chúng ta thì thế giới có thể hiện hữu mà không có Thượng đế,
nhưng làm sao Thượng đế có thể hiện hữu mà không có thế giới?
Đây không phải
là hai điều khác nhau. Do đó, vũ trụ vĩ mô có thể tồn tại mà không có vũ trụ vi
mô; không khó khăn gì cho biển tồn tại mà không có sóng. Nhưng làm sao sóng có
thể hiện hữu mà không có biển được? Sóng là rất nhỏ, và nó là phụ thuộc vì
chính bản thể nó lại tuỳ theo biển. Nếu biển bao quanh nâng nó lên, thì nó có
đó. Biển chăm nom nó từ đủ mọi phía. Nếu biển thả nó ra, nó mất tiêu.
Hai điều này là
không tách rời, nhưng tôi phải nói rằng chúng là tách rời để cho sóng sẽ không
bị ảo tưởng rằng nó là bất tử, vô hình dạng và vĩnh hằng. Nếu sóng nghĩ bản
thân nó tách rời, thế thì có khả năng cho ảo tưởng này và các hậu quả của nó.
Nhưng nếu sóng là một với biển, không có ảo tưởng. Nếu kinh nghiệm là kinh nghiệm
về cái một, thế thì nó sẽ nói, "ta không có đó chút nào; chỉ có duy nhất
biển." Theo cách này, Jesus cứ lặp lại mãi, "Ta không có đó, chỉ cha
ta trên trời là hiện hữu."
Cho nên chúng
ta trong khó khăn. Hoặc là chúng ta muốn được chỉ cho Thượng đế ở trên thiên đường
để cho chúng ta có thể tìm ra ngài là ai và ngài ở đâu, hay chúng ta sẽ bảo
Jesus điên bởi vì chúng ta không hiểu điều ông ấy đang nói. Jesus đã nói,
"Ta là biển, không phải là sóng," nhưng chúng ta đã chẳng thấy gì
khác ngoài sóng. Biển chỉ là một từ với chúng ta. Cái là sự tồn tại đích thực
thì chỉ là một từ đối với chúng ta, còn cái chỉ là dáng vẻ chúng ta lại coi là
chân lí.
Linh hồn không
được biết tới với chúng ta, nhưng thân thể thì hàng ngày được chúng ta nhìn thấy.
Cái mà hàng ngày được thấy trở thành chân lí cho chúng ta. Đó là lí do tại sao
tôi đã nói rằng thân thể là hướng cái chết và bản thân nó là cái chết. Linh hồn
là bất tử, không hướng cái chết. Nhưng trên tính bất tử của nó lại có điệu vũ của
cái chết trên thân thể.
Chúng ta không
có khó khăn trong việc hiểu biển và sóng bởi vì chúng ta đã không thấy bất kì sự
thù nghịch nào giữa chúng. Nhưng cái bất tử và cái chết lại khó hiểu bởi vì
chúng ta đã giả thiết chúng là kẻ thù; đó là niềm tin của chúng ta. Khi tôi nói
về biển và sóng, sự tồn tại của chúng được gắn chặt chẽ với nhau, cho nên dường
như không có đối lập nào. Nhưng cái bất tử và cái chết lại dường như là kẻ thù
tuyệt đối - như các đối lập. Dường như chúng không bao giờ có thể là một. Nhưng
chúng cũng là một đấy. Bạn càng biết về cái chết gần hơn và sâu hơn, bạn sẽ
càng thấy rằng cái chết chẳng là gì khác hơn sự thay đổi.
Sóng cũng thay
đổi. Bạn càng tìm kiếm sâu vào trong cái bất tử, bạn sẽ càng thấy nó không là
cái gì khác hơn cái vĩnh hằng. Sự tồn tại của bất kì cái gì có vẻ như trong đối
lập trong thế giới này đều dựa trên cái đối lập của nó. Khó khăn của chúng ta là
ở chỗ đối với chúng ta nó dường như đối lập. Chúng ta duy trì tách biệt giữa
cái chết và cái bất tử - nhưng cái chết không thể tồn tại mà không có cái không
chết. Để cái chết tồn tại, nó phải kiếm sự hỗ trợ của cái không chết. Chừng nào
mà cái chết có đó, nó đều cần sự hỗ trợ của cái là bất tử.
Ngay cả để dối
trá tồn tại, nó chỉ có làm được như vậy với sự hỗ trợ của chân lí. Để dối trá tồn
tại, nó cũng phải công bố rằng nó là chân lí. Chân lí không bao giờ công bố là
chân lí, nhưng dối trá bao giờ cũng công bố rằng nó là chân lí. Nó không thể đi
được một li mà không có công bố như vậy. Nó phải công bố om sòm, "Chú ý
đây; ta đang tới đây. Ta là chân lí." Nó mang nhiều xác nhận với nó để chứng
minh tại sao nó lại là chân lí.
Chân lí không cần
xác nhận; nó không cần sự hỗ trợ từ dối trá. Nếu chân lí lấy hỗ trợ của dối
trá, nó sẽ gặp khó khăn. Nếu dối trá không lấy hỗ trợ của chân lí, thế thì dối
trá sẽ gặp khó khăn.
Với tính bất tử,
hỗ trợ của cái chết là không cần thiết, nhưng chỉ trong mối quan hệ với khái niệm
về bất tử mà sự xuất hiện của cái chết mới được hiểu. Sự tồn tại thuần khiết
không có nhu cầu cho cái thay đổi được, nhưng cái đang thay đổi có thể được hiểu
chỉ trong mối quan hệ với cái không đổi. Một điều là chắc chắn, đó là chúng ta
hiểu chỉ cái thay đổi được - bởi vì đó là điều chúng là gì. Đó là lí do tại
sao, bất kì khi nào chúng ta nghĩ về cái bất tử, chúng ta cố gắng hiểu nó chỉ
thông qua cái có thể thay đổi được. Không có cách khác.
Hoàn cảnh của
chúng ta giống như người trong bóng tối cố gắng đoán ánh sáng là gì. Người đó
không có cách khác. Bóng tối chỉ là một dạng rất lờ mờ của ánh sáng. Nó là hoàn
cảnh của ánh sáng tối thiểu có thể có. Nơi không có ánh sáng chút nào, thì cũng
không có điều như bóng tối. Ánh sáng có thể có hoặc có thể ở bên ngoài khả năng
của mắt chúng ta để nắm bắt nó.
Các giác quan của
chúng ta nắm bắt mọi vật chỉ trong những giới hạn nào đó. Bằng không, các tia
sáng cường độ cao thường xuyên qua chúng ta sẽ làm cho chúng ta mù ngay lập tức
nếu chúng ta định nhìn vào chúng. Chừng nào mà chúng ta còn chưa biết tia x là
gì, chúng ta cũng không biết rằng các tia của tia x có thể xuyên qua thân thể
con người. Chúng ta không biết rằng bức ảnh về bộ xương bên trong mình có thể
được chụp từ bên ngoài. Nếu không phải hôm nay, thì ngày mai chúng ta có thể có
khả năng tìm ra một tia có thể xuyên thấu qua tế bào ban đầu của một đứa trẻ mới
thụ thai trong bụng mẹ nó và có thể cho chúng ta thấy toàn bộ khoảng sống của đứa
trẻ đó sẽ là gì sau việc sinh của nó. Và có khả năng cho điều này xảy ra.
Nhiều kiểu tia
xuyên qua chúng ta, nhưng mắt chúng ta không thể bắt được chúng. Điều chúng ta
gọi là bóng tối đơn giản là ánh sáng mà mắt chúng ta không có khả năng thấy. Bởi
vì mắt chúng ta không thể thấy những tia sáng nào đó, nên với chúng ta chúng dường
như không là gì nhiều hơn bóng tối.
Điều chúng ta gọi
là bóng tối thì chỉ là ánh sáng mà mắt chúng ta không thể thấy được. Do đó, bất
kì suy diễn nào mà một người đứng trong bóng tối làm ra về ánh sáng đều rất có
thể sai, vì bóng tối chỉ là một dạng, cái bóng của ánh sáng. Mặc dầu cái chết
chỉ là sự thay đổi về hình dạng của cái bất tử, bất kì suy diễn nào được rút ra
về cái bất tử từ một người đang quan sát cái chết thì cũng đều sai cả. Nếu
chúng ta biết bất tử là gì, chỉ thế thì cái gì đó mới xảy ra; bằng không chẳng
cái gì xảy ra cả.
Mọi người bị
cái chết bao quanh chỉ hiểu cái bất tử có nghĩa là chúng ta sẽ không chết.
Nhưng họ sai. Người biết bất tử là gì thì biết rằng mình chưa bao giờ có đó
chút nào. Sự khác biệt là rất sâu sắc và nền tảng. Một người đang thấy cái chết
cứ nghĩ rằng nếu đúng là linh hồn là bất tử thì mình sẽ không chết. Suy nghĩ của
người đó là hướng tương lai. Người đó đang sống trong tương lai và lo nghĩ về
nó, cho nên hiểu biết của người đó sẽ là hướng tương lai. Nhưng người biết bất
tử là gì thì sẽ nói, "Mình không có đó chút nào; mình chưa bao giờ
sinh." Người đó sẽ hướng quá khứ.
Bởi vì tất cả mọi
tri thức khoa học đều bị bao quanh bởi cái chết, nên khoa học bao giờ cũng nói
về tương lai. Và vì toàn bộ tôn giáo được bao quanh bởi cái bất tử, nên nó bao
giờ cũng nói về quá khứ - về nguồn gốc, không về mục đích. Nó quan tâm tới cội
nguồn cơ sở. Tôn giáo nói về thế giới này đã từ đâu tới, từ đâu chúng ta đã tới.
Tôn giáo nói rằng nếu chúng ta biết hoàn toàn chúng ta đã tới từ đâu - cội nguồn
của chúng ta và sự bắt đầu của chúng ta - thì chúng ta sẽ không lo nghĩ về nơi
chúng ta sẽ đi, bởi vì chúng ta không thể đi bất kì đâu ngoài việc trở về cội
nguồn đó. Nguồn gốc của chúng ta là định mệnh của chúng ta, việc tìm kiếm của
chúng ta, mục đích của chúng ta.
Suy nghĩ tôn
giáo quan tâm tới việc tìm về nguồn gốc - với nguồn gốc là gì. Từ đâu mà thế giới
này tới? Từ đâu mà sự tồn tại này, linh hồn này, thế giới này tới? Suy nghĩ tôn
giáo là trong việc tìm về quá khứ, về nguồn gốc của chúng ta. Mọi khoa học đều
là việc tìm hướng tương lai - về nơi chúng ta đi tới, chỗ chúng ta sẽ đạt tới,
điều chúng ta sẽ trở thành, cái gì sẽ xảy ra ngày mai, mục đích là gì. Việc tìm
của khoa học được tiến hành bởi những người hướng cái chết. Suy nghĩ tôn giáo
được thực hiện bởi những người mà cái chết đã chấm dứt mang bất kì ý nghĩa gì.
Điều thú vị là
để ý rằng cái chết bao giờ cũng là trong tương lai. Cái chết chẳng liên quan gì
tới quá khứ. Bất kì khi nào bạn đang nghĩ về cái chết, quá khứ cũng không có hậu
quả gì, không quan trọng gì. Cái chết nằm ở trong ngày mai, nhưng nguồn gốc mà
từ đó cuộc sống đã tới thì bao giờ cũng là hôm qua. Từ đâu cuộc sống đang tới,
nơi mà dòng sông Hằng tuôn chảy, là ngọn nguồn, Gangtori. Nhưng nơi dòng sông Hằng
sẽ làm trống rỗng bản thân nó là biển cả. Nó bắt đầu trong hôm qua và sẽ kết
thúc trong ngày mai.
Vậy một người bị
bao quanh bởi cái chết bao giờ cũng rút ra kết luận được cái chết tô mầu. Điều
là thực với bình diện cao hơn chỉ có thể là sự phỏng đoán theo phần của bình diện
thấp hơn. Sự kiện của bình diện thứ hai chỉ nên được đánh giá bởi kinh nghiệm của
bình diện thứ hai. Do đó, điều thú vị là để ý rằng người biết tới bình diện thứ
hai thì một cách tự nhiên biết luôn cả bình diện thứ nhất nữa, nhưng người biết
bình diện thứ nhất lại không nhất thiết biết tới bình diện thứ hai. Đó là lí do
tại sao, nếu chúng ta mô tả Phật, Krishna và Christ như những người thông minh
và trí huệ cao, thì đấy là do một lí do đặc biệt: họ biết tất cả các bình diện;
chúng ta chỉ biết một bình diện. Đó là lí do tại sao điều họ nói nhiều nghĩa
hơn. Và bất kì điều gì chúng ta biết, họ chắc chắn biết. Không có khó khăn
trong điều này. Họ đã biết cái chết; họ cũng đã biết khổ, giận dữ và bạo hành.
Kinh nghiệm của họ là kinh nghiệm về tất cả các bình diện.
Tại các nước
phương Tây mọi tri thức đều chỉ là sự tích luỹ trên cùng một bình diện. Bất kì
điều gì Einstein có thể đã biết, khác biệt giữa tri thức của ông ấy và của
chúng ta đơn giản chỉ là định lượng. Chẳng hạn, chúng ta chỉ có thể đo cái bàn
này, nhưng ông ấy có thể đo toàn thế giới. Khác biệt này là ở số lượng hay mức
độ. Không có khác biệt chất lượng. Điều này có nghĩa là ông ấy không biết cái
gì đó khác với điều bạn có thể biết, nhưng điều ông ấy biết chỉ là sự mở rộng về
mặt số lượng của điều có thể được biết tới đối với bạn. Bạn có thể biết ít, ông
ấy biết nhiều hơn. Bạn chỉ có một đô la, ông ấy có thể có cả triệu. Nhưng một
đô la của bạn và triệu đô la của ông ấy là không khác nhau về chất lượng. Cái
ông ấy có không khác với cái bạn có.
Khi chúng ta gọi
Phật hay Mahavira là gyanis, người biết, điều chúng ta ngụ ý là khác. Có thể là
trên bình diện của mình, chúng ta có thể biết nhiều hơn họ biết, nhưng việc
chúng ta gọi họ là gyanis có nghĩa là họ biết cái gì đó ở bình diện khác mà về điều
đó chúng ta không biết gì cả. Họ đã đi vào trong chiều hướng mới có khác biệt về
chất.
Nếu Mahavira và
Einstein mà gặp nhau, thậm chí có thể xảy ra là Mahavira sẽ tỏ ra là người
không biết về mọi thứ mà Einstein đã biết. Ông ấy có thể không có tích luỹ tri
thức nhiều như Einstein. Mahavira có thể nói, "Tôi chỉ có thể đo được cái
bàn này thôi; ông có khả năng đo cả trái đất. Ông thậm chí có khả năng biết khoảng
cách từ trái đất tới mặt trăng hay các vì sao; tôi không thể làm được điều đó.
Nếu tôi có thể đo được căn phòng này, thì thế cũng đủ cho tôi rồi. Những dẫu vậy,
tôi vẫn nói rằng ông không hiểu biết nhiều hay không có tri thức nhiều bằng tôi
bởi vì ông chỉ biết cái là lí lẽ thông thường."
Nếu căn phòng
này có thể được đo, các vì sao cũng có thể được đo. Không có siêu việt trong
khi làm điều đó. Bên trong Einstein không có chuyển hoá hay thay đổi; ông ấy
không phải là người khác. Ông ấy vẫn còn là con người cũ, mặc dầu ông ấy hiệu
quả hơn ở nơi chúng ta không hiệu quả. Chỉ mỗi điều là ông ấy có tốc độ lớn hơn
nhiều trên cùng một bình diện, trong khi chúng ta rất chậm. Einstein đã du hành
xa trên cùng một bình diện nơi chúng ta đã du hành chút xíu. Einstein đã đi sâu
vào chỗ người khác chỉ chạm vào ngoại vi, nhưng Einstein đã không di chuyển vào
bình diện khác.
Khi chúng ta gọi
Phật hay Mahavira hay những người khác thuộc loại của họ là người biết, chúng
ta ngụ ý rằng họ đã đi ra ngoài bình diện của cái chết tới chỗ họ đã biết cái bất
tử, và điều họ nói cho chúng ta về cái này là vô giá. Chúng ta có thể hiểu nó
theo cách này: nếu một người chưa bao giờ say rượu đưa ra phát biểu về say rượu,
thế thì phát biểu này vô giá trị. Nếu một người đã uống rượu say mà đưa ra phát
biểu về say rượu, thế thì điều đó cũng vô giá trị. Nhưng phát biểu của người đã
say rượu nhưng lại vượt ra ngoài nó thì có giá trị.
Người chưa say
rượu chút nào là trẻ con. Phát biểu của người đó sẽ ngây thơ. Đó là lí do tại
sao những người chưa bao giờ say bất kì rượu nào đã không có khả năng hiểu được
những người uống rượu. Những người uống rượu nói, "Chúng tôi đã biết điều
anh biết, nhưng bây giờ chúng tôi biết điều gì đó còn hơn thế." Nếu bạn uống
rượu, thế thì bạn có thể nói điều gì đó về nó. Nhưng những người đã tự say hoàn
toàn và rồi đã bỏ nó thì có điều gì đó hơn để nói. Người say rượu sẽ lắng nghe
họ.
Tại châu Âu và
châu Mĩ, có những hội người nghiện rượu. Alcoholics Anonymous là một tổ chức
lan rất rộng. Chỉ những người đã có lần nghiện rượu mới có thể trở thành thành
viên của tổ chức này, và phong trào này đã bắt đầu để làm cho những người nghiện
khác từ bỏ uống rượu. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ những hội người nghiện rượu
như vậy có thể làm cho người khác cũng nghiện rượu lại từ bỏ uống rượu rất
nhanh chóng, bởi vì điều những người nghiện rượu đó nói là tới từ sự chín muồi
của họ. Phát biểu của họ được những người uống rượu hiểu rõ hơn bởi vì điều họ
nói là từ kinh nghiệm. Họ cũng đã say sưa và đi loạng choạng và ngã lăn ra lặp
đi lặp lại, và họ đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của kẻ say. Đó là lí do tại
sao phát biểu của họ, tới từ kinh nghiệm, lại có giá trị.
Nhưng điều này
tôi đã nói ra chỉ là cách đưa ra minh hoạ. Dù bạn có uống rượu hay không uống
hay từ bỏ uống rượu, cũng chẳng có khác biệt gì trong bình diện bạn đang đứng.
Bạn vẫn trên cùng mặt phẳng. Sự khác biệt chỉ là ở các bậc thang khác nhau trên
cùng chiếc thang. Nhưng một khi bạn kinh nghiệm cái bất tử, có thay đổi về bình
diện. Tác động lớn lao của các giáo huấn của Phật, Mahavira và Christ là do sự
kiện là mặc dầu họ biết điều chúng ta thường biết, họ cũng biết cái gì đó bên
ngoài cái mà chúng ta biết. Từ tri thức mới đó mà họ có, họ có thể nói rằng đã
có sai lầm nền tảng trong việc biết của chúng ta.
Trong khi thảo
luận về Mahavira, Thầy đã nói rằng Mahavira đã đạt tới tự hiểu hoàn toàn trong
lần sinh trước của mình và rằng ông ấy đã lấy lần sinh nữa do từ bi chỉ để diễn
đạt và nói cho những người khác về điều ông ấy đã thấy và đã biết. Tương tự, thầy
đã nói rằng Krishna đã hoàn toàn chứng ngộ từ chính việc sinh của ông ấy. Trước
đây, khi tôi thảo luận với Thầy tại Jabalpur, tôi có trực giác rằng điều Thầy
đã nói về Mahavira và Krishna cũng áp dụng được cho Thầy. Có đúng là Thầy cũng
lấy việc sinh từ lòng từ bi không? Trong hoàn cảnh này, xin Thầy chiếu sáng lên
những lần sinh trước của Thầy và những thành tựu của Thầy trong chúng sao cho
điều đó có thể có ích cho những người tìm kiếm? Xin Thầy giải thích lỗ hổng thời
gian giữa lần sinh cuối của Thầy và lần sinh này là gì?
Trong mối liên
quan này, nhiều điều phải được nhớ trong tâm trí. Trước hết, liên quan tới việc
sinh của những người như Mahavira, điều đó nên được hiểu rằng khi việc đạt tới
tự hiểu của họ được hoàn tất trong một kiếp đặc biệt, chính sự tự do hoàn toàn
của họ là ở việc chọn liệu có lấy lần sinh nữa hay không. Chính sự kiện là nếu
họ lấy việc sinh thành, việc sinh đó được lấy với tự do chọn lựa hoàn toàn.
Không lần sinh
nào trước việc đạt tới tự hiểu lại được lấy từ tự do cả. Người ta không có chọn
lựa trong các lần sinh khác. Những lần sinh khác là do cưỡng bách của định mệnh
của chúng ta - dường như chúng ta bị đẩy tới hay bị lôi kéo vào việc sinh bởi
những hành động quá khứ của mình và bị lôi kéo tới bởi ham muốn của mình về
tương lai. Vậy, sinh thông thường là một biến cố người ta không tự tự lo liệu
được.
Chỉ trong ý thức
đầy đủ mới có cơ hội cho việc chọn lựa - chỉ khi người ta đã biết đầy đủ về cái
ta. Vị trí đó được đạt tới khi không cái gì thêm nữa còn cần được biết tới. Một
khoảnh khắc như vậy tới khi người ta có thể nói rằng "không có tương lai
cho tôi bởi vì với tôi không có ham muốn. Không cái gì sẽ tạo ra bất kì bất hạnh
cho tôi nếu tôi không có được nó." Tình huống này, nơi lần đầu tiên bạn có
chọn lựa, xảy ra khi người ta đã đạt tới đỉnh cao nhất.
Mối quan tâm lớn
và một trong những bí ẩn sâu sắc nhất của cuộc sống là ở chỗ những người ham muốn
được tự do thì không thể được tự do còn những người không có ham muốn chút nào
lại trở nên tự do. Những người có ham muốn lấy việc sinh tại một nơi đặc biệt
hay trong một gia đình đặc biệt thì không có chọn lựa ngoài việc làm như vậy.
Nhưng những người có tự do có thể lấy việc sinh ở bất kì đâu mà họ chọn, nếu họ
ham muốn như vậy, cho dù họ có thể không thực hiện việc chọn lựa của mình.
Tự do chọn lựa
có đó để lấy chỉ một lần sinh nữa - không phải bởi vì sẽ không có bất kì tự do
nào để lấy lần sinh khác, mà bởi vì sau một lần sinh nữa thì ham muốn dùng tự
do như vậy bị mất.
Tự do còn lại
mãi mãi. Trong kiếp sống này, nếu bạn đạt tới kinh nghiệm tối thượng, thế thì bạn
sẽ có tự do đó. Nhưng điều thường xảy ra là ở chỗ sau khi đạt tới tự do này,
ham muốn dùng nó không mất đi ngay. Và tình huống này có thể được sử dụng.
Nhưng những người
đã nhìn sâu vào vấn đề này đều đã cảm thấy rằng đây cũng là một kiểu tù túng.
Đây là lí do tại sao người Jaina, người đã tìm kiếm sâu theo hướng này - hơn bất
kì nỗ lực tôn giáo nào khác trên thế giới này - đã mô tả tù túng này là
teerthankara gotrabandh, ham muốn là thầy giáo để hướng dẫn người khác hướng tới
chứng ngộ. Đây là tù túng cuối cùng. Nó là tù túng với tự do đầy đủ - tù túng
cuối cùng, chỉ với một ham muốn cuối cùng để dùng nó.
Tuy nhiên đấy vẫn
là một ham muốn. Đó là lí do tại sao có nhiều người đã đạt tới chứng ngộ, nhưng
tất cả trong họ không thể trở thành teerthankara. Để là một teerthankara, để
dùng được tự do này, cần phải có một chuỗi các hành động kiểu quá khứ đặc biệt.
Một chuỗi dài về ham muốn là thầy giáo là cần thiết. Nếu gắn bó này để là thầy
giáo mà tồn tại, thì nó sẽ cho cái đẩy cuối cùng. Thế thì bất kì cái gì được biết
sẽ được nói ra, bất kì cái gì được kinh nghiệm sẽ được mô tả, và bất kì cái gì
thu được sẽ được phân phối.
Sau khi hiểu biết
được đạt tới, không nhất thiết là mọi người phải lấy lần sinh khác. Do đó trong
tình huống như vậy, trong hàng triệu người đã tự hiểu, chỉ một người mới chọn lấy
thêm một lần sinh nữa. Đó là lí do tại sao người Jaina có một số trung bình cố
định ít nhiều, rằng trong một srishti-kalpa, một thời kì sáng tạo, chỉ có thể
có hai mươi bốn teerthankaras.
Điều đó có tác
dụng như bất kì số trung bình nào khác. Chẳng hạn, chúng ta nói rằng ngày nay,
về trung bình, biết bao nhiêu tai nạn sẽ xảy ra trên đường phố Bombay. Bản ghi
về các tai nạn của ba mươi năm qua được tính tới, và con số trung bình được thảo
ra. Việc dự đoán trở thành ít nhiều chính xác. Tương tự, việc xảy ra này của
hai mươi bốn teerthankara cũng là con số trung bình. Chính là từ kí ức của nhiều
thời kì sáng tạo mà con số trung bình được thảo ra.
Có những kí ức
về nhiều thế giới đã từng được sinh ra và triệt tiêu của chúng, và trong những
thời kì đó teerthankaras đã được sinh ra. Về trung bình, trong mỗi thời kì như
thế, chỉ vào khoảng hai mươi tư người mới có khả năng duy trì lời cam kết lấy
thêm một lần sinh nữa. Trong hoàn cảnh này, cũng nên nhớ rằng khi chúng ta nói
về số tai nạn trên đường phố Bombay, chúng ta không nghĩ tới tai nạn trên đường
phố London, hay tai nạn chỉ trên đường Marine Drive hay trên bất kì đường phố đặc
biệt nào của Bombay.
Tính toán của
người Jaina dựa trên con đường của riêng họ. Trong tính toán đó, con đường của
Jesus, Krishna hay Phật không được tính tới. Nhưng điều thú vị là để ý rằng khi
người Hindu thử tính trên con đường của mình, thì việc đếm của họ về những người
như vậy cũng là hai mươi bốn. Tương tự, Phật tử cũng đếm hai mươi bốn cho con
đường của họ. Đó là lí do tại sao ý tưởng về hai mươi bốn hoá thân kẹt lại cho
tất cả. Người Jaina đã có ý tưởng về hai mươi bốn teerthankara còn Phật tử có ý
tưởng về hai mươi bốn vị phật.
Trong những điều
như vậy, Ki tô giáo và Mô ha mét giáo đã không đi sâu. Nhưng Mô ha mét giáo có
nói rằng Mohammed không phải là người đầu tiên như vậy và rằng đã có những người
như ông ấy trước đó. Bản thân Mohammed đã chỉ ra rằng bốn người đã tới trước
ông ấy, nhưng việc nhận diện từ những chỉ dẫn đó vẫn còn mơ hồ và không đầy đủ.
Con đường của Mohammed trong chuỗi trước ông ấy không thể được tìm thấy. Con đường
chỉ được biết tới bắt đầu từ bản thân Mohammed. Không ai khác đã có khả năng đếm
với cùng sự sáng tỏ mà Mahavira đã có trong việc đếm hai mươi bốn trong tín ngưỡng
của ông ấy, bởi vì với Mahavira con đường đó đi tới kết thúc. Dễ dàng để sáng tỏ
về các sự kiện quá khứ, nhưng Mohammed cũng phải nghĩ đến tương lai, và có khó
khăn để rõ ràng.
Jesus nữa đã cố
gắng đếm người trước ông ấy, nhưng việc tính của ông ấy lại mơ hồ bởi vì con đường
của Jesus cũng là mới, bắt đầu từ ông ấy. Phật cũng có thể đếm không rõ ràng về
những người trước mình; ông ấy chỉ đưa ra những tham khảo gián tiếp theo hướng
đó.
Đó là lí do tại
sao, trong việc tính về hai mươi bốn vị phật, không có ai trước Phật. Theo mối
quan hệ này, người Jaina đã nghiên cứu sâu hơn và chân thực hơn. Họ đã giữ các
bản ghi đầy đủ về tên và địa chỉ của hai mươi bốn người đó. Vậy, trên mọi con
đường đều có hai mươi bốn cá nhân. Những cá nhân như thế chỉ lấy thêm một lần
sinh sau khi chứng ngộ. Lần sinh đó, tôi đã nói với các bạn, chỉ là do lòng từ bi.
Trong thế giới
này, không cái gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Lí do cho việc lấy lần sinh nữa
có thể chỉ là một trong hai điều: hoặc có ham muốn hoặc có từ bi. Không có lí
do thứ ba. Tôi có thể tới nhà bạn hoặc để cho cái gì đó hoặc để lấy cái gì đó.
Không thể có lí do thứ ba. Nếu tôi tới nhà bạn để lấy cái gì đó, đó là ham muốn.
Nếu tôi tới để cho cái gì đó, đấy là từ bi. Không có lí do hay mục đích thứ ba
để tới nhà bạn.
Mọi việc sinh bắt
nguồn từ ham muốn đều sẽ là phụ thuộc, bởi vì bạn có thể chẳng bao giờ độc lập
trong điều kiện thèm muốn hay cầu xin. Làm sao người ăn xin có thể là độc lập
được?
Người ăn xin
không thể nào độc lập được, bởi vì tất cả mọi tự do đều nằm trong người cho. Tự
do nào có thể có đó cho người ăn xin? Nhưng người cho có thể tự do. Cho dù bạn
không lấy, người cho vẫn có thể cho. Nhưng nếu bạn không cho, người ăn xin
không thể lấy. Không nhất thiết là chúng ta lấy tất cả những thứ mà Mahavira và
Phật đã cho chúng ta, nhưng chắc chắn là họ đã cho. Việc lấy là không chắc chắn
và có thể bị né tránh, nhưng việc cho là chắc chắn và xác định. Ham muốn phân
phối cái được nhận, được hiểu hay được biết là tự nhiên, nhưng đấy là ham muốn
cuối cùng. Do đó, nó cũng được gọi là tù túng. Những người đã biết đều mô tả điều
đó là tù túng của hành động. Điều đó nữa cũng là tù túng - tù túng cuối cùng.
Cho nên tôi sẽ phải tới nhà bạn. Tôi có thể tới hoặc để lấy hoặc để cho, nhưng
tôi nhất định sẽ tới nhà bạn.
Cho dù tôi
không định tới nhà bạn, điều đó cũng không khác biệt gì. Tôi sẽ phải tới nhà bạn.
Nhưng có khó khăn lớn: vì mọi người thường tới nhà bạn chỉ để lấy cái gì đó còn
bạn cũng tới nhà người khác chỉ để yêu cầu cái gì đó, nên tự nhiên sẽ khó hiểu
ai đó tới cho bạn cái gì đó.
Tôi sẽ nói cho
bạn một điều rất khó hiểu thường xảy ra bởi vì điều này. Vì bạn không có khả
năng hiểu việc cho nghĩa là gì, nên nhiều lần những cá nhân như thế đã phải giả
vờ lấy cái gì đó từ bạn. Điều đó sẽ vượt ra ngoài việc hiểu của bạn là những
người từ bi thế cũng phải xem xét liệu có xin bạn thức ăn nào đó không. Đó là
lí do tại sao mọi bài nói tôn giáo của Mahavira chỉ được cho sau bữa ăn. Những
bài nói như vậy chỉ là một loại tạ ơn. Nó là việc tạ ơn về thức ăn bạn đã cho.
Nếu Mahavira phải
tới xin thức ăn, bạn lập tức hiểu điều đó. Ông ấy sẽ nói với bạn vài lời để đáp
lại, theo cách cám ơn, và sẽ ra đi. Bạn cảm thấy vừa lòng rằng mình đã cho hai
lát bánh mì, một công việc quả thực rất hào phóng! Bạn sẽ không có khả năng hiểu
rằng những con người từ bi như vậy cũng phải xem xét xem liệu bạn có khả năng
nhận điều họ muốn cho hay không. Và nếu không có thu xếp nào với bạn để cho, bản
ngã bạn sẽ thấy khó mà chấp nhận.
Đó là lí do tại
sao chẳng có lí do gì để Mahavira hay Phật phải đi ăn xin và phải đòi hỏi thức
ăn từ bạn - bởi vì bạn sẽ không thể nào dung thứ được cho người chỉ tới cho bạn.
Bạn dứt khoát sẽ trở thành kẻ thù của người đó. Bạn sẽ thấy thật là kì cục khi
nghĩ rằng bạn trở thành kẻ thù với người chỉ tới cho bạn và không cho bạn bất
kì cơ hội nào để cho lại. Nếu người đó không đòi hỏi cái gì từ bạn, rào chắn sẽ
được tạo ra giữa người đó và bạn.
Đó là lí do tại
sao người như vậy nói chung hỏi xin bạn những thứ nhỏ bé. Đôi khi người đó hỏi
xin bữa ăn, đôi khi về quần áo và đôi khi người đó nói người đó không có chỗ
nghỉ. Người đó phải lấy cái gì đó từ bạn, và bạn trở nên không căng thẳng. Bạn
đã trở nên bình đẳng với người đó, ở cùng mức độ, bởi vì bạn đã cho người đó
cái gì đó nhiều hơn, còn người đó chẳng cho bạn cái gì ngoài đôi lời. Bạn đã
cho người đó chỗ trú ngụ, quần áo hay tiền bạc. Người đó đã cho cái gì? Người
đó chỉ kể cho bạn vài câu chuyện hay cho bạn lời khuyên nào đó.
Do đó Phật đã gọi
các sannyasin của mình là bhikkhus - khất sĩ, và đã yêu cầu họ đi đây đó như kẻ
ăn xin, bởi vì chỉ thế thì họ mới có thể cho. Họ sẽ phải đi đây đó trá hình làm
kẻ ăn xin để tạo ra tình huống trong đó họ có thể dễ dàng cho.
Từ bi có vấn đề
của riêng nó. Một người sống trên bình diện như vậy đang đối diện với những khó
khăn lớn. Chúng ta không thể hiểu được người đó. Người đó sống giữa những người
không hiểu ngôn ngữ của mình và bao giờ cũng sẽ hiểu lầm người đó. Điều này là
không tránh khỏi, mặc dầu người đó không thấy phiền phức hay lo nghĩ về nó. Khi
bạn hiểu lầm người đó thì không có lo nghĩ, bởi vì người đó biết rằng điều đó
là tự nhiên và rằng bạn đang nghĩ và hiểu mọi thứ trên bình diện của riêng
mình. Do đó, những người đã hiểu mọi người, người còn chưa phát triển khả năng
dạy trong các kiếp quá khứ, biến mất, ngay khi họ trở nên chứng ngộ; họ không lấy
lần sinh khác.
Trong mối liên
hệ này, cũng đáng hiểu rằng việc lấy lần sinh thành của Mahavira và Phật trong
hoàng gia là rất có ý nghĩa. Người Jaina đã quyết định một cách quả quyết rằng
teerthankara phải lấy việc sinh thành chỉ trong hoàng gia. Có lần tôi đã nói rằng
có câu chuyện về linh hồn của Mahavira đã đi vào bụng mẹ của một phụ nữ
brahmin, và Thượng đế đã đổi cái bào thai đó để thuộc vào người phụ nữ
kshatriya, bởi vì một teerthankara phải được sinh ra chỉ trong hoàng gia.
Tại sao? Bởi vì
sau khi lấy việc sinh trong hoàng gia, nếu người ta trở thành kẻ ăn xin theo ý
chí tự do riêng của mình, người đó sẽ có tác động hơn và dễ chấp nhận hơn cho mọi
người. Người đó sẽ được mọi người hiểu rõ hơn bởi vì họ đã có thói quen bao giờ
cũng lấy và đòi hỏi cái gì đó từ vua của mình. Và bởi vì thói quen đó mà có lẽ
bất kì điều gì người tới đem cho đều sẽ được mọi người nhận.
Chính thói quen
của chúng ta là bao giờ cũng nhìn lên vua, vì vua bao giờ cũng ngồi ở bậc cao
hơn. Cho dù vua có chọn là kẻ ăn xin và đi ăn xin trên đường, vua vẫn còn ở bậc
cao hơn. Thói quen cũ này mà mọi người có sẽ giúp cho vua. Do đó, đây là một
phương cách để làm cho việc thành dễ dàng. Vậy, một teerthankara như vậy có thể
được sinh ra chỉ từ hoàng gia. Nhưng điều này không khó, bởi vì người như vậy
đã có chọn lựa trong tay mình về nơi lấy việc sinh.
Tất cả các cá
nhân như Phật và Mahavira đều đã đạt tới và hiểu ra trong những lần sinh trước
đó của họ. Thế thì tất cả những điều đã được đạt tới đều được phân phối trong lần
sinh cuối của họ. Có thể hỏi rằng nếu tất cả những tri thức và thành tựu này đã
tới trong lần sinh trước đó, thì sao Mahavira và Phật lại dường như làm nhiều nỗ
lực thế trong lần sinh gần nhất của họ để đạt tới cái gì đó?
Với câu hỏi này
không có câu trả lời. Bởi điều này, lẫn lộn đã được tạo ra. Sao Mahavira và Phật
lại phải làm nhiều sadhana thế? Krishna chẳng làm điều như vậy, trong khi
Mahavira và Phật lại làm. Nỗ lực này không phải để đạt tới chân lí. Chân lí đã
được biết tới với họ, nhưng giải thích và diễn đạt nó cho người khác theo bất
kì cách nào cũng không kém khó hơn là việc biết nó. Trong thực tế, còn khó hơn.
Nếu người ta phải giải thích chân lí nào đó, điều đó lại còn khó hơn.
Chẳng hạn, chân
lí của Krishna không phải là đặc biệt theo bất kì cách nào. Đó là lí do tại sao
Krishna có thể thành công trong nỗ lực của mình để đem cho nó từ nơi mình đang
hiện hữu. Nhưng chân lí mà Mahavira và Phật dạy rất đặc biệt. Những con đường
mà họ đã chỉ ra cũng rất đặc thù. Chúng là đặc thù theo khía cạnh này: chẳng hạn,
nếu Mahavira có yêu cầu ai đó tiếp tục nhịn ăn ba mươi ngày, và nếu người đó biết
rằng bản thân Mahavira chưa bao giờ nhịn ăn cả, người đó sẽ không được chuẩn bị
để nghe theo Mahavira.
Mahavira phải
nhịn ăn trong mười hai năm chỉ vì những người ông ấy muốn dạy. Bằng không sẽ
không thể nào nói cho họ về nhịn ăn được. Mahavira phải gìn giữ mouna, im lặng,
trong mười hai năm để thuyết phục những người muốn trở nên im lặng trong chỉ mười
hai ngày. Bằng không họ sẽ không nghe Mahavira.
Đối với Phật,
có một câu chuyện hay khác. Phật bắt đầu một hệ thống thiền mới trong khi
Mahavira không bắt đầu hệ thống mới. Mahavira có tri thức của một khoa học đã
phát triển đầy đủ, theo một tín ngưỡng mà ông ấy không phải là người đầu tiên
mà là người cuối cùng. Đằng sau ông ấy là một chuỗi dài các thầy giáo lẫy lừng.
Chuỗi đó được gìn giữ và bảo đảm an toàn đến mức nó không bao giờ bị mất. Tri
thức đó đã được kí thác cho Mahavira như một loại tin cậy từ các thầy giáo trước
đó.
Quả thực điều
kì diệu là đến thời của Mahavira, tri thức đó vẫn có thể còn lại liên tục thế.
Vậy Mahavira đã không cho bất kì chân lí mới nào. Chân lí đã được trao thì đã
được nuôi dưỡng từ lâu, và nó có sức mạnh của sự kế thừa lâu dài. Nhưng
Mahavira cũng đã phải tạo ra tính cá nhân riêng của mình để cho mọi người sẽ lắng
nghe ông ấy.
Điều thú vị là
để ý rằng người Jaina đã nhớ Mahavira nhiều nhất và rằng hai mươi ba
teerthankaras trước đó đều thực tế đã bị lãng quên. Đây là điều ngạc nhiên, vì
Mahavira là người cuối cùng trong chuỗi. Ông ấy không phải là người tiên phong
mà cũng chẳng phải là người đầu tiên, ông ấy cũng chẳng có chân lí mới nào được
khải lộ. Ông ấy khải lộ chỉ những điều đã được biết và kiểm nghiệm. Dầu vậy,
Mahavira vẫn được nhớ nhiều nhất, và hai mươi ba người còn lại đã trở thành huyền
thoại.
Nếu Mahavira mà
không được sinh ra, chúng ta thậm chí chẳng biết tới tên của hai mươi ba
teerthankara trước đó. Lí do sâu sắc hơn cho điều này là ở chỗ Mahavira đã dành
mười hai năm xây dựng hình ảnh và cá nhân của mình trong khi những teerthankara
khác lại không. Họ chỉ chăm nom sadhana của mình. Mahavira có hệ thống được tổ
chức rất tốt. Trong sadhana không có hệ thống có tổ chức, nhưng với Mahavira,
sadhana là một loại hành động mà ông ấy thực hiện rất hiệu quả.
Đó là lí do tại
sao những hình ảnh về hai mươi ba teerthankara khác không thể nổi lên được rõ
ràng và sắc nét như hình ảnh của Mahavira. Tất cả họ đều mờ nhạt. Mahavira đã tạo
ra hình ảnh của mình như một nghệ sĩ hoàn hảo. Tất cả đã được lập kế hoạch chu
đáo. Bất kì cái gì ông ấy muốn làm với nhân cách của mình đều được chuẩn bị tốt.
Ông ấy tới được chuẩn bị đầy đủ.
Phật là người đầu
tiên theo nghĩa là ông ấy phải mang theo mình một hệ thống sadhana mới. Do đó,
Phật phải đi qua con đường khác. Điều thú vị là để ý rằng điều này đã tạo ra một
ảo tưởng là tự mình Phật trải qua sadhana. Thực tế, Phật đã hiểu ra trong kiếp
trước của mình. Trong lần sinh này, ông ấy chỉ phân phối mùa màng mà ông ấy đã
gặt trước đây. Nhưng Phật đã không có tín ngưỡng có tổ chức đằng sau ông ấy. Việc
tìm kiếm của Phật hoàn toàn là của riêng ông ấy. Ông ấy tạo ra một con đường mới
cho bản thân mình. Trên cùng ngọn núi đó nơi đường cái rộng đã có, ông ấy tạo
ra một con đường mới.
Mahavira đã bước
trên con đường hoàng gia làm sẵn, nhưng ông ấy phải công bố lại điều đó bởi vì
mọi người rất thường có khuynh hướng quên đi những điều như vậy. Nhưng con đường
đã có đó cho ông ấy. Phật phải khai phá đất mới, cho nên ông ấy đã làm ra một
kiểu thu xếp khác trong cuộc sống của mình. Đầu tiên ông ấy đã trải qua đủ mọi
loại sadhana. Và sau khi trải qua từng sadhana như vậy, ông ấy nói rằng nó là
vô dụng và rằng không ai có thể đạt tới đâu cả qua nó. Đến cuối cùng ông ấy đã
công bố phương pháp riêng của mình, bằng việc nói rằng ông ấy đã đạt tới con đường
đó và rằng bất kì ai cũng đều có thể đạt tới con đưòng đó.
Điều này, người
ta có thể nói, là một chuyện đã được thu xếp trước rất nhiều - đã được sắp xếp
rất chu đáo! Người muốn đưa vào một công phu mới sẽ phải công bố rằng tất cả
các công phu cũ đều giả. Và nếu Phật gọi chúng là giả mà không trải qua chúng,
như Krishnamurti làm, thế thì tác động sẽ không nhiều hơn tác động của điều
Krishnamurti nói, bởi vì người ta không có quyền tuyên bố điều gì là giả mà
không trong kinh nghiệm của mình.
Gần đây, ai đó
tới tôi cũng đã tới gặp Krishnamurti và đã hỏi ông ấy về kundalini.
Krishnamurti đã nói rằng điều đó tất cả là vô dụng. Thế rồi, với người đã thông
báo điều này tôi đã hỏi người đó có hỏi điều này từ kinh nghiệm hay không - liệu
người đó có hỏi nó sau khi thực nghiệm với kundalini hay không - hay không làm
như thế. Nếu điều đó được hỏi mà không thực nghiệm hay trải qua nó, thế thì điều
đó là vô dụng. Nếu nó được hỏi sau khi thực nghiệm, thế thì câu hỏi khác nên được
hỏi với người đó: liệu người đó có thành công hay người đó không thành công.
Nếu người đó
thành công, thế thì bảo nó vô dụng là sai. Nếu người đó không thành công, không
cần phải theo điều mà người khác cũng nhất định không thành công trong thực
nghiệm. Do đó, Phật đã phải trải qua tất cả các công phu và phải chỉ ra rằng
công phu này là sai hay công phu kia là sai và rằng không công phu nào có thể đạt
tới đâu cả qua nó. Thế thì ông ấy có thể nói, "Ta đã đạt tới bởi phương
pháp này, và ta đang bảo các ông từ kinh nghiệm."
Mahavira đã trải
qua cùng tất cả những công phu đó, nhưng ông ấy đã công bố rằng chúng đã được
thực hành cho nhiều thời đại và đều có ích. Phật đã nói rằng mọi thứ đều vô dụng,
và ông ấy đã mở ra một chiều hướng mới. Nhưng cả hai trong họ đều đã chứng ngộ
trong lần sinh trước.
Krishna cũng đã
chứng ngộ trong lần sinh trước đó của mình, nhưng Krishna không đưa ra bất kì
kĩ thuật đặc biệt mới nào cho việc tự hiểu. Krishna đã chỉ dẫn một cách sống đặc
biệt. Do đó, không có nhu cầu trải qua bất kì tiến trình thiền hay khổ hạnh
nào, bởi vì bản thân điều đó sẽ là chướng ngại.
Nếu Mahavira đã
nói rằng có khả năng đạt tới moksha thậm chí trong khi ngồi trong cửa tiệm
riêng của bạn, thế thì nỗ lực riêng của Mahavira trong việc phát triển cá nhân
của mình sẽ dường như vô ích. Thế thì mọi người sẽ hỏi Mahavira, "Vậy sao
thầy từ bỏ mọi thứ?" Nếu Krishna đã đi vào rừng để thiền và thế rồi đứng
trên chiến trường và nói rằng ngay cả trên chiến trường người ta cũng có thể đạt
tới, không ai sẽ nghe ông ấy. Thế thì Arjuna cũng sẽ hỏi ông ấy tại sao ông ấy
lại muốn lừa dối anh ta. Nếu bản thân Krishna đi vào rừng, sao ông ấy phải ngăn
cản Arjuna làm như vậy?
Cho nên điều đó
tuỳ thuộc vào mọi thầy giáo về cách thức và điều người đó muốn cho. Thế thì một
nỗ lực thích hợp, một cố gắng sống, phải được thực hiện trong hoàn cảnh đó.
Thông thường thầy sẽ phải thu xếp trong cuộc sống điều hoàn toàn nhân tạo.
Nhưng điều này là không thể tránh khỏi cho điều thầy muốn trao.
Bây giờ câu hỏi
này mà bạn đã hỏi tôi có chút ít khó khăn để trả lời. Sẽ dễ hơn cho tôi để đáp
lại nếu được hỏi về Mahavira hay Phật hay Krishna. Nhưng dầu vậy, hai hay ba điều
có thể được giữ lại để xem xét. Trước hết, lần sinh trước đây của tôi đã xảy ra
quãng bẩy trăm năm trước. Nhiều khó khăn có đó do sự kiện đó.
Lần sinh trước của
Mahavira vào quãng hai trăm năm mươi năm trước lần sinh của ông ấy là Mahavira.
Lần sinh trước của Phật chỉ là bẩy mươi tám năm trước lần sinh của ông ấy là Phật.
Trong trường hợp của Phật, thậm chí còn có những người đang sống có thể đứng ra
làm nhân chứng cho sự kiện về kiếp sống trước của ông ấy. Thậm chí trong thời của
Mahavira, có những người có thể nhớ đã gặp Mahavira trong lần sinh trước của họ.
Việc sinh của Krishna làm Krishna vào quãng hai nghìn năm sau lần sinh cuối của
ông ấy, và do vậy tất cả các tên của các rishi đã chứng ngộ mà Krishna đã cho đều
rất cổ đại. Thậm chí không thể nhớ được chúng về mặt lịch sử.
Bẩy trăm năm là
một thời kì rất dài. Nhưng với người lấy lần sinh sau bẩy trăm năm thì nó lại
không rất dài lắm, bởi vì khi người ta không trong thân thể thì không có khác
biệt giữa một khoảnh khắc và bẩy trăm năm. Việc đo thời gian bắt đầu chỉ với
thân thể. Bên ngoài thân thể, không có khác biệt dù bạn đã bẩy trăm năm hay bẩy
nghìn năm. Chỉ khi thu được thân thể thì khác biệt mới bắt đầu.
Điều thú vị là
để ý tới phương pháp để biết khoảng thời gian giữa cái chết cuối cùng và lần
sinh hiện tại. Nói về bản thân tôi, làm sao tôi đi tới biết rằng tôi đã không ở
đây trong bẩy trăm năm? Rất khó để đoán đúng nó một cách trực tiếp. Tôi chỉ có
thể đánh giá hay tính toán thời gian bằng việc quan sát những người đã lấy nhiều
lần sinh trong khoảng thời gian này.
Giả sử, chẳng hạn,
một người đặc biệt được tôi biết tới trong thời gian sống của tôi bẩy trăm năm
về trước. Trong khoảng giữa với tôi là lỗ hổng, nhưng người đó có thể đã lấy mười
lần sinh. Tuy nhiên, có những kí ức về mười lần sinh quá khứ của người đó. Chỉ
từ kí ức của người đó tôi mới có thể tính ra tôi đã phải còn không có thân thể
trong bao lâu. Ngoài ra thì khó mà tính toán và xác định điều này, bởi vì thang
thời gian của chúng ta và phương pháp đo không thuộc về thời gian phổ biến ở
bên ngoài thân thể hay trong trạng thái vô thân thể. Việc đo của chúng ta về thời
gian là trong thế giới của sự tồn tại có thân thể.
Nếu cái gì đó
giống thế này, rằng trong một khoảnh khắc tôi ngủ thiếp đi và thấy giấc mơ.
Trong giấc mơ tôi thấy rằng nhiều năm đã trôi qua, và sau một vài khoảnh khắc bạn
đánh thức tôi dậy và nói rằng tôi đã mê đi. Tôi hỏi bạn bao nhiêu thời gian đã
trôi qua rồi trong khi mê đi, và bạn đáp, "Chưa được lấy một khoảnh khắc."
Tôi nói, "Làm sao điều đó lại có thể được? Tôi đã thấy một giấc mơ kéo đến
hàng vài năm."
Trong giấc mơ,
khoảng vài năm có thể được thấy trong một khoảnh khắc. Thang thời gian của cuộc
sống mơ là khác. Nếu, sau khi tỉnh ra từ giấc mơ, người mơ không có cách nào biết
được khi nào mình đi ngủ, thế thì cũng sẽ khó mà xác định chiều dài giấc ngủ của
người đó. Điều đó có thể được biết chỉ bằng chiếc đồng hồ. Chẳng hạn, trước khi
tôi được đánh thức là mười hai giờ, và bây giờ khi tôi được đánh thức dậy sau
khi ngủ, mới chỉ mười hai giờ một phút. Bằng không tôi chỉ có thể biết bởi vì bạn
đã ở đây nữa; không có cách nào khác để biết. Cho nên chỉ theo cách này mới xác
định được rằng bẩy trăm năm đã trôi qua.
Và một điều khác
bạn đã hỏi tôi là liệu tôi có được sinh ra với hiểu biết đầy đủ hay không. Liên
quan tới điều này, có vài điều cần được hiểu mà cũng quan trọng.
Có thể nói rằng
tôi đã được sinh ra với tri thức gần đầy đủ. Tôi nói gần đầy đủ chỉ bởi vì một
vài bước đã bị bỏ lại một cách có cân nhắc, và việc cân nhắc đó có thể được
làm.
Trong mối liên
quan này nữa, suy nghĩ của người Jaina là rất khoa học. Họ đã phân chia tri thức
thành mười bốn bước. Mười ba bước là trong thế giới này còn bước thứ mười bốn
là ở cõi bên kia. Trong số những bước này gunasthana - mười ba bước này - một số
trong chúng là có thể được bỏ lại; chúng là tuỳ chọn. Không nhất thiết người ta
phải trải qua toàn bộ chúng. Những tầng như vậy tất cả đều có thể được trải
qua, nhưng người nhảy qua chúng có thể chẳng bao giờ giữ teerthakara bandh
nguyên vẹn.
Bất kì cái gì
là tuỳ chọn cũng đều phải được thầy giáo biết tới. Các chủ đề tuỳ chọn cũng phải
được thầy giáo nghiên cứu. Với học trò, bất kì cái gì phải được biết để vượt
qua kì thi là đủ. Nhưng thầy giáo phải hiểu mọi thứ, kể cả những cái tuỳ chọn.
Trong mười ba
bước này của tự hiểu, có vài điều là tuỳ chọn. Có những chiều hiểu nào đó mà về
nó không nhất thiết phải biết để trở nên chứng ngộ. Người ta có thể đi thẳng tới
moksha. Nhưng với người định là thầy giáo, những chiều đó cũng phải được biết.
Một điều quan
trọng khác cần được chú ý là ở chỗ sau một giai đoạn phát triển nào đó, chẳng hạn,
sau khi đạt tới mười hai bước, chiều dài thời gian cần để đạt tới các bước còn
lại có thể bị kéo dài ra. Chúng có thể được đạt tới hoặc trong một lần sinh,
hai lần sinh hay trong ba lần sinh. Mục đích lớn có thể được làm thành việc trì
hoãn.
Như tôi đã nói
trước đây, sau khi đạt tới việc hiểu đầy đủ không có khả năng thêm nữa để lấy
việc sinh nhiều hơn một lần nữa. Người chứng ngộ như vậy không thể góp phần hay
có ích cho nhiều hơn một lần sinh thêm. Nhưng sau khi đạt tới mười hai bước, nếu
hai bước có thể bị gạt sang bên, thế thì người như vậy có thể có ích cho nhiều
lần sinh nữa. Và khả năng có đó để gạt chúng sang bên.
Khi đạt tới mười
hai bước, cuộc hành trình đã gần đi tới chỗ chấm dứt. Tôi nói gần đi tới: điều
đó có nghĩa là tất cả mọi bức tường đã sụp đổ; chỉ một tấm màn trong suốt mà
qua đó mọi thứ có thể được nhìn thấy. Tuy nhiên bức màn có đó. Sau khi nâng nó
lên, không khó khăn gì đi ra bên ngoài. Sau khi đã vượt ra ngoài bức màn, bất
kì cái gì bạn thường có khả năng thấy đều có thể được thấy từ phía bên kia của
bức màn nữa. Không có khác biệt chút nào.
Cho nên đây là
lí do tại sao tôi nói là gần: bằng việc lấy thêm một bước nữa, người ta có thể
đi ra ngoài bức màn. Nhưng thế thì không có khả năng nào cho chỉ một lần sinh nữa,
trong khi nếu người ta vẫn còn ở phía bên này bức màn người ta có thể lấy bao
nhiêu lần sinh tuỳ ý. Sau khi đi vào cõi bên kia, không có đường nào quay lại
nhiều hơn một lần để sang phía bên này của bức màn.
Người ta có thể
hỏi liệu Mahavira và Phật có biết điều này không. Có, điều này là rõ ràng với họ,
và nó có thể đã được họ sử dụng nữa. Nhưng có khác biệt cơ bản về hoàn cảnh.
Điều đáng quan
tâm là chú ý rằng sau khi đạt tới việc tự hiểu đầy đủ, thì việc hiểu đó chỉ có
thể được dạy cho những học viên rất tiến bộ, không phải cho tất cả mọi người. Với
những người mà Phật và Mahavira đã làm việc trong nhiều lần sinh của họ, với những
người đã bước đi bên cạnh họ trong nhiều hình dạng, với họ, một lần sinh nữa là
đủ. Đôi khi chuyện xảy ra đến mức thậm chí một lần sinh nữa cũng không cần thiết.
Nếu trong cuộc sống hiện tại của mình, người ta đạt tới việc hiểu và độ tuổi
hai mươi, và nếu người ta còn sống tới độ tuổi sáu mươi, nếu người đó có thể
hoàn tất công việc trong bốn mươi năm còn lại, thì vấn đề chấm dứt; không cần
quay lại nữa.
Nhưng bây giờ
tình huống rất kì lạ. Những người có thể được gọi là các sadhak đã phát triển
như người tốt gần bằng không. Để làm việc trên những sadhak như vậy, thầy giáo
tương lai sẽ phải làm việc trong nhiều lần sinh. Chỉ thế thì công việc mới có
thể được hoàn tất; không có điều ngược lại.
Với Mahavira
hay Phật tình huống có khác bởi vì khi họ sắp rời bỏ kiếp sống cuối cùng, họ
không thể tìm ra vài người quanh mình mà họ có thể tin cậy giao phó cho công việc
tiếp theo. Tình huống đó bây giờ không tồn tại nữa.
Ngày nay con
người hoàn toàn là người hướng ngoại. Đó là lí do tại sao ngày nay thầy giáo có
khó khăn mà trước đây còn chưa có. Không chỉ thầy phải làm việc vất vả hơn với
số lượng lớn những người chưa phát triển lớn hơn, mà cũng còn có nỗi sợ rằng
lao động của thầy có thể bị phí hoài. Lần nữa, không thể tìm ra những cá nhân
thích hợp mà qua người đó công việc có thể được tin cậy giao phó. Điều này đã xảy
ra trong trường hợp của Guru Nanak của tín ngưỡng Sikh.
Mãi cho tới
Gobind Singh, mãi cho tới guru Sikh thứ mười, vẫn có thể tìm ra người tiếp.
Nhưng Gobind Singh phải chấm dứt việc công phu đó. Gobind Singh đã cố gắng rất
vất vả, đến mức chưa từng ai trước ông ấy đã làm, để tìm ra người thứ mười một
để giữ cho chuỗi được nguyên vẹn. Nhưng ông ấy không thể tìm ra được ai cả. Ông
ấy đã phải kết thúc việc tìm, và chấm dứt chuỗi. Bây giờ không thể có người thứ
mười một bởi vì điều đó chỉ có thể xảy ra trong sự liên tục kín. Một khi đã có
một hơi chút sứt mẻ hay lỗ hổng, không thể nào truyền tiếp điều định được truyền
tiếp.
Bồ đề đạt ma, một
đệ tử đã chứng ngộ của Phật, phải đi từ Ấn Độ sang Trung Quốc, bởi vì ở Trung
Quốc có một người mà với người đó có thể truyền trao hiểu biết của ông ấy. Bản
thân tín ngưỡng phật giáo đã đi ra khỏi Ấn Độ xem như hậu quả. Mọi người đã hiểu
từ điều này rằng vài sư phật giáo đã đi sang Trung Quốc để lan truyền Phật
giáo, nhưng khái niệm này là sai. Đây là hiểu biết của những người thấy các biến
cố lịch sử từ bên ngoài.
Huệ Khả là tên
của người ở Trung Quốc mà có thể được truyền trao tri thức, và điều thú vị là để
ý rằng ông ấy không sẵn sàng đi sang Ấn Độ. Khó khăn của thế giới này thường rất
đáng ngạc nhiên. Huệ Khả không sẵn sàng đi bởi vì ông ấy còn không nhận biết về
tiềm năng của mình. Do đó, Bồ đề đạt ma phải làm cuộc hành trình dài cả con đường
tới Trung Quốc. Thế rồi lần nữa thời gian lại tới khi những bí mật của tín ngưỡng
Phật giáo phải dịch chuyển sang Nhật Bản, với cùng việc truyền trao tri thức.
Lỗ hổng bẩy
trăm năm này là một thời kì có nhiều khó khăn cho tôi. Những khó khăn là thế
này: Trước hết, ngày càng trở nên khó lấy việc sinh. Với bất kì người nào đạt tới
một giai đoạn phát triển nào đó, khó để tìm ra bố mẹ thích hợp cho lần sinh nữa.
Trong thời của Mahavira và Phật không có khó khăn như thế. Hàng ngày, bụng mẹ đều
có sẵn qua đó những linh hồn cao cấp như vậy có thể lấy việc sinh.
Trong thời của
Mahavira, đã có tám người hoàn toàn chứng ngộ ở Bihar - tất cả đều cùng mức độ
như Mahavira. Họ đã làm việc theo tám con đường khác nhau. Hàng nghìn người gần
đạt tới tình huống này. Không phải có vài người, mà hàng nghìn người, với họ
công việc có thể được tin cậy giao phó để có sự chăm nom đúng đắn và truyền
trao thêm nữa.
Ngày nay, nếu
ai đó ở mức độ cao đó mà muốn lấy việc sinh, người đó có thể phải đợi vài nghìn
năm. Khó khăn khác là ở chỗ trong khoảng thời gian này công việc mà người đó có
thể đã làm có thể bị mất đi. Tại khoảng giữa, các cá nhân, mà người đó có thể
đã làm những việc nào đó, đã lấy thêm mười lần sinh nữa, và sẽ khó mà cắt qua hết
tầng nọ tới tầng kia của mười lần sinh ấy.
Ngày nay, bất
kì bậc thầy nào cũng sẽ phải trải qua thời gian chuẩn bị dài hơn nhiều trước
khi cuối cùng nâng tấm màn lên và đi ra ngoài. Người đó sẽ phải tự đẩy mình lại.
Một khi người đó đã vượt ra ngoài tấm màn rồi, người đó sẽ không sẵn sàng hay
không sẵn ý định lấy lần sinh nữa. Người đó sẽ có chọn lựa liệu có lấy hay
không một lần sinh nữa, nhưng người đó sẽ nghĩ điều đó là vô ích. Có lí do cho
điều này. Người đó có thể lấy một lần sinh nữa, nhưng để cho ai? Trong một lần
sinh, không thể đạt được nhiều lắm.
Nếu tôi biết rằng
bởi việc tới trong phòng này tôi có thể hoàn thành công việc của mình trong một
giờ, thế thì đáng đến lắm. Nếu công việc không thể được thực hiện, chẳng ích gì
mà đến. Theo khía cạnh này, từ bi có mục đích kép. Thứ nhất, nó muốn cho bạn
cái gì đó; thứ hai, nó cũng biết rằng nếu nó chỉ lấy cái gì đó khỏi bạn và không
thể cho bạn được, thế thì bạn sẽ trong nguy hiểm lớn. Khó khăn của bạn sẽ không
giảm mà sẽ tăng lên. Nếu tôi có khả năng chỉ ra cho bạn cái gì đó, điều đó là tốt
và nên. Nhưng nếu tôi không có khả năng chỉ cho bạn và bạn trở nên mù với bất
kì cái gì tôi trước đây đã có thể thấy, thế thì tình huống còn tồi tệ hơn.
Liên quan tới bẩy
trăm năm này, vài điều khác có thể cũng được lưu ý. Thứ nhất, tôi đã không có bất
kì ý tưởng nào rằng việc nói chuyện như vậy sẽ phát sinh. Đôi lúc quay lại thời
gian, bỗng nhiên ở Poona vấn đề này nảy sinh ra. Mẹ tôi đã tới. Mẹ tôi đã được
Ramlal Pungalia hỏi liệu bà ấy có nhớ vài sự kiện đặc biệt thời kì đầu về tôi
không và liệu bà ấy có sẵn lòng kể lại điều đó cho anh ta không.
Tôi đã bị ấn tượng
rằng không có khả năng nào cho vấn đề như vậy tới. Tôi cũng đã không biết khi
nào họ nói với nhau. Gần đây, anh ta đã công bố điều này trong một cuộc họp, rằng
mẹ tôi đã nói với anh ta rằng tôi đã không khóc trong ba ngày sau khi sinh, và
tôi đã không bú sữa trong ba ngày đó. Đây là việc nhớ lại đầu tiên của mẹ tôi về
tôi.
Điều này là
đúng. Bẩy trăm năm trước, trong kiếp trước của tôi, đã có một công phu tâm linh
trong hai mươi mốt ngày, phải được thực hiện trước khi chết. Tôi đã định từ bỏ
thân thể mình sau việc nhịn ăn toàn bộ hai mươi mốt ngày. Có những lí do cho điều
này, nhưng tôi đã không thể nào hoàn tất hai mươi mốt ngày đó. Ba ngày vẫn còn
lại. Ba ngày này tôi đã phải hoàn tất trong cuộc sống này. Cuộc sống này là sự
liên tục từ đó. Thời kì chen giữa không có ý nghĩa gì trong khía cạnh này. Khi
chỉ còn ba ngày trong kiếp sống đó, tôi đã bị giết. Hai mươi mốt ngày đã không
thể được hoàn tất bởi vì tôi đã bị giết chỉ ba ngày trước đó, và ba ngày này đã
bị bỏ mất.
Trong kiếp sống
này, ba ngày đó đã được hoàn tất. Nếu hai mươi mốt ngày đó mà có thể đã được
hoàn tất trong kiếp đó, thế thì có lẽ đã không có khả năng để lấy thêm một lần
sinh nữa. Bây giờ trong hoàn cảnh này, nhiều điều đáng chú ý.
Đứng trước tấm
màn đó và không đi qua nó là rất khó. Thấy tấm màn đó và vẫn không nâng nó lên
là rất khó. Thật là khó để thường vẫn còn nhận biết về vấn đề khi nào tấm màn sẽ
được nâng lên. Gần như một nhiệm vụ không thể được là đứng ngay trước tấm màn
đó và vẫn không nâng nó lên. Nhưng điều này có thể xảy ra chỉ bởi vì ba ngày
trước khi hoàn tất việc nhịn ăn đó, tôi đã bị giết.
Do đó, tôi đã
nói nhiều lần trong những việc thảo luận khác nhau rằng cũng hệt như Judas đã
thử trong một thời gian dài để giết Jesus, mặc dầu Judas không có thù hận với
Jesus, người giết tôi đã không có thù hận gì với tôi, mặc dầu người đó đã bị
coi là, và đã bị xử lí như, một kẻ thù.
Việc giết người
đó lại trở thành có giá trị. Vào lúc chết, ba ngày đó bị bỏ lại. Sau tất cả những
cố gắng hăm hở của tôi về chứng ngộ trong kiếp đó, tôi đã có khả năng đạt tới
trong cuộc sống này, sau một thời kì hai mươi mốt năm, điều đáng đã có thể đạt
được trong ba ngày đó. Với mỗi ngày trong ba ngày trong kiếp sống đó, tôi đã phải
mất bẩy năm trong kiếp sống này. Đó là lí do tại sao tôi nói từ kiếp sống trước
của mình, một mình tôi đã không đi tới việc hiểu đầy đủ. Tôi nói thay vì thế
tôi đã tới với việc hiểu gần hoàn chỉnh. Bức màn có thể đã được nâng lên, nhưng
thế rồi lại có thể có chỉ một lần sinh nữa.
Bây giờ tôi vẫn
có thể lấy lần sinh nữa. Bây giờ có khả năng thêm một lần sinh nữa. Trong toàn
bộ cuộc sống này tôi sẽ cứ cố gắng để xem liệu một lần sinh nữa sẽ cần dùng hay
không. Thế thì cũng đáng nói về việc sinh; bằng không vấn đề qua rồi và chẳng
ích gì mà làm thêm bất kì nỗ lực nào. Cho nên việc giết người đó cũng có giá trị
và hữu dụng.
Như tôi đã kể
cho các bạn, việc đo thời gian trong khi trong thân thể là khác với việc tính
thời gian trong các trạng thái khác của tâm thức. Vào lúc sinh, thời gian trôi
rất chậm. Vào lúc chết, thời gian đi rất nhanh. Chúng ta đã không hiểu tốc độ của
thời gian bởi vì trong hiểu biết của chúng ta thời gian không có tốc độ. Chúng
ta chỉ hiểu rằng theo thời gian mọi thứ đều chuyển động.
Mãi cho tới giờ,
ngay cả những nhà khoa học lỗi lạc nhất cũng không có ý tưởng gì rằng thời gian
cũng có vận tốc. Lí do cho điều này là ở chỗ nếu chúng ta ấn định hay quyết định
vận tốc của thời gian, thế thì sẽ khó để đo tất cả các vận tốc khác. Do đó,
chúng ta đã giữ cho thời gian đều đặn. Chúng ta nói rằng trong một giờ ai đó đã
bước ba dặm. Nhưng nếu trong ba dặm mà giờ cũng bước đi bằng cách nào đó, điều
đó sẽ tạo ra nhiều khó khăn. Do đó chúng ta đã làm cho giờ thành đều đặn và
tĩnh tại; bằng không mọi thứ sẽ thành lẫn lộn. Vậy, chúng ta đã làm cho thời
gian thành tĩnh tại. Nhưng sự kiện thú vị nhất là ở chỗ thời gian không tĩnh tại,
và nó lại còn hay thay đổi và chuyển động hơn bất kì cái gì khác. Thời gian có
nghĩa là thay đổi. Chúng ta đã giữ nó cố định, chốt lại như cái cọc lều. Điều
đó được làm một cách chính xác với lí do là không giữ cho nó cố định, việc đo về
tất cả các chuyển động khác sẽ thành không thể được. Tốc độ thời gian này cũng
chạy ít nhiều tương ứng với trạng thái tâm trí của người ta.
Tốc độ thời
gian của trẻ con là chậm, nhưng tốc độ thời gian của ông già lại rất nhanh, gọn
và cô đọng. Trong một khoảng ngắn, thời gian đi rất nhanh cho người già, trong
khi với đứa trẻ thời gian lại chuyển động rất chậm, trong một khoảng lớn. Với mọi
con vật cũng vậy, thời gian đi khác nhau. Trẻ con loài người cần mười bốn năm để
lớn lên chỉ như con chó lớn trong vài tháng. Con cái của một số con vật lớn lên
còn nhanh hơn.
Một số con vật
được sinh ra đã gần đủ kích cỡ. Khoảnh khắc chúng đặt chân lên mặt đất thì đã
không có gì khác biệt giữa chúng và con lớn thuộc loài chúng. Chúng đã hoàn chỉnh.
Đó là lí do tại sao con vật không có nhiều cảm giác về thời gian. Chuyển động
là rất nhanh với chúng. Nó cũng nhanh đến mức ngay khi con ngựa non đặt chân
lên mặt đất nó đã bước được rồi. Nó không thể quan niệm được rằng có lỗ hổng thời
gian giữa việc được sinh ra và việc có khả năng bước.
Con cái con người
có thể quan niệm được lỗ hổng thời gian đó, và do vậy con người là con vật bị
thời gian gây rắc rối. Con người, nói đại loại, bao giờ cũng trong căng thẳng,
chạy đua với thời gian cứ dường như nó liên tục chạy qua và chạy tiếp, bỏ lại
con người chạy lê đằng sau.
Trong những khoảnh
khắc cuối của kiếp sống trước của tôi, công việc còn lại có thể đã được làm chỉ
trong ba ngày bởi vì thời gian là rất sít sao. Tuổi tôi đã là một trăm linh
sáu. Thời gian đi rất nhanh. Câu chuyện về ba ngày đã tiếp tục trong thời trẻ
con của tôi vào lúc sinh này. Trong kiếp trước của tôi nó đã là lúc cuối, nhưng
để kết thúc công việc đó ở đây trong kiếp sống này phải mất hai mươi mốt năm.
Nhiều thời
gian, nếu cơ hội bị bỏ lỡ, có thể cần phải mất đến bẩy năm cho mỗi ngày. Cho
nên trong cuộc sống này tôi đã không đi tới hiểu biết hoàn toàn, nhưng đã tới với
gần hiểu biết hoàn toàn. Nhưng bây giờ tôi sẽ phải làm việc thu xếp của mình
khác đi.
Như tôi đã nói
với các bạn, Mahavira phải trù liệu một tapascharya, một hệ thống các cách khổ
hạnh, qua chúng ông ấy có thể cho. Phật phải trù liệu các phương pháp khác để
làm cho mọi cách khổ hạnh thành sai - hết cách nọ tới cách kia. Đây cũng là một
kiểu khổ hạnh. Điều Mahavira và Phật đã không phải làm, tôi phải làm. Chẳng vì
cái gì, thế mà tôi phải đọc đủ mọi thứ có đó trong thế giới này. Nó tất cả đều
vô dụng; tôi chẳng dùng gì nó. Nhưng với thế giới hiện đại này, cái thế giới chẳng
bận tâm gì về người cứ nhịn ăn hay người ngồi với mắt nhắm nghiền, không thông
điệp nào có thể được trao qua việc thực hành khổ hạnh cả. Nếu bất kì ai có thể
đạt tới bởi bất kì việc khổ hạnh nào, đấy chỉ là qua cái mà tôi đã lĩnh hội về
sự tích luỹ lớn lao tri thức trí tuệ cứ mỗi ngày một lớn lên mãi.
Đó là lí do tại
sao tôi đã dành cả đời mình với sách vở. Tôi nói rằng Mahavira đã không bị rắc
rối nhiều bởi vẫn còn nhịn ăn, nhưng tôi đã phải nhận rắc rối của việc đọc nhiều
đến mức chẳng có ích gì cho tôi cả. Tuy nhiên, chỉ sau khi nhận rắc rối đó, tôi
mới có thể trao đổi và làm cho thông điệp của tôi thành hiểu được cho thế giới
này; bằng không, không làm được. Thời đại khoa học hiện đại chỉ có thể hiểu
ngôn ngữ của riêng nó.
Nếu những điều
này trở nên rõ ràng cho bạn, nó không khó với bạn thì bạn cũng bắt đầu có ý tưởng
nào đó về các lần sinh trước của mình. Tôi mong rằng tôi có thể sớm làm cho các
bạn nhớ lại những điều như vậy, bởi vì nếu bạn có thể nhớ nó thì sẽ tiết kiệm
được nhiều thời gian và năng lượng. Thông thường, điều rất thường xảy ra là bạn
bắt đầu cuộc sống của mình không phải từ nơi bạn đã bỏ lại trong kiếp sống trước,
mà trong mọi lần sinh bạn đều bắt đầu lại gần như từ ABC. Nếu bạn có thể nhớ
quá khứ của mình, thế thì bạn không phải bắt đầu từ ABC, bạn có thể bắt đầu từ
chỗ bạn đã bỏ lại. Và chỉ thế thì mới có khả năng tạo ra tiến bộ, không có cách
khác.
Bây giờ điều
này đáng để hiểu: Con vật đã không có tiến bộ chút nào. Các nhà khoa học đều
phân vân rằng con vật cứ tái tạo lại bản thân chúng mà không có tiến hoá thêm.
Khỉ chỉ có bộ não hơi không phát triển bằng con người, nhưng khác biệt tiến hoá
lại lớn hơn là khác biệt trong bộ não. Vấn đề là gì? Khó khăn có thể là cái gì?
Tại sao khỉ không thoát ra khỏi cái vòng lặp lại của chúng? Chúng ở đúng chỗ
chúng đã ở từ hàng triệu năm trước đây.
Chúng ta đang
nghĩ rằng tiến trình tiến hoá diễn ra khắp mọi nơi, nhưng tất cả đều rất không
chắc chắn. Giả thuyết của Darwin là rất lẫn lộn bởi vì trong hàng trăm và hàng
nghìn năm khỉ vẫn ở chỗ chúng bao giờ cũng ở; chúng không phát triển. Sóc vẫn
còn là sóc và không phát triển. Bò vẫn còn là bò chẳng phát triển thêm gì. Cho
nên phát triển không phải là tự động; có cái gì đó khác đang tạo ra khác biệt.
Mọi con khỉ đều
phải bắt đầu từ nơi bố nó bắt đầu. Con không thể bắt đầu từ nơi bố kết thúc. Bố
không có khả năng trao đổi; nó không có khả năng làm cho con nó bắt đầu từ nơi
nó bỏ lại trong kiếp sống của nó. Làm sao có thể có bất kì tiến bộ nào được? Mỗi
lần con lại bắt đầu từ cùng một điểm.
Tương tự thế là
tình huống liên quan tới việc phát triển của linh hồn. Nếu bạn bắt đầu cuộc sống
này từ nơi bạn đã bắt đầu trong kiếp sống trước, bạn không thể phát triển được.
Theo nghĩa tâm linh, sẽ không có tiến hoá cho bạn. Trong mọi lần sinh bạn sẽ bắt
đầu từ cùng một điểm nơi bạn đã bắt đầu trước đó. Nếu điểm bắt đầu vẫn còn như
cũ, thế thì không có tiến hoá.
Tiến hoá hay
phát triển có nghĩa là điểm kết thúc trước đây nên là điểm bắt đầu; bằng không
sẽ không có tiến hoá. Con người có thể tạo ra tiến bộ bởi vì con người đã phát
minh ra ngôn ngữ cho trao đổi. Điều bố biết thì bố có thể dạy cho con mình.
Giáo dục có nghĩa là điều này, rằng cái mà thế hệ của bố đã đi tới biết ra thì
có thể được trao cho thế hệ con.
Nhưng con sẽ
không phải bắt đầu từ nơi bố đã bắt đầu. Nếu con có thể bắt đầu từ nơi bố đã bỏ
lại, thế thì sẽ có tiến bộ. Thế thì chuyển động sẽ không dưới dạng hình tròn,
mà dưới dạng xoắn ốc. Thế thì con sẽ không đi theo vòng tròn, mà sẽ bắt đầu leo
lên. Nó sẽ bắt đầu leo lên dường như nó đang trên đồi. Điều là đúng cho tiến
hoá con người nói chung thì cũng đúng cho tiến hoá tâm linh của mỗi cá nhân.
Nếu bạn không
có bất kì trao đổi nào giữa kiếp sống này và kiếp sống trước, thế thì bạn đã
không tìm hiểu chút nào vào kiếp sống trước đây của mình. Bạn đã không tìm hiểu
vào nơi bạn đã bỏ lại để cho bạn có thể bắt đầu từ đó. Bởi vì điều này có thể
là bạn sẽ lại dựng lên cùng dinh thự từ móng của nó, mà bạn đã xây dựng trong
kiếp trước. Lần nữa bạn sẽ đặt móng. Nếu bạn cứ đặt móng mãi, thế thì khi nào bạn
sẽ hoàn thành việc xây dựng toà nhà?
Do đó, chút điều
nhỏ bé tôi đã kể cho các bạn về kiếp sống trước của mình không phải bởi vì nó
có giá trị gì hay để bạn có thể biết điều gì đó về tôi. Tôi đã kể cho bạn điều
này chỉ bởi vì nó có thể làm cho bạn suy nghĩ về bản thân mình và đặt bạn vào
việc tìm kiếm các kiếp sống quá khứ của bạn. Khoảnh khắc bạn biết kiếp sống quá
khứ của mình, sẽ có cách mạng và tiến hoá tâm linh. Thế thì bạn sẽ bắt đầu từ
nơi bạn đã bỏ lại trong kiếp sống trước của mình; bằng không bạn sẽ bị lạc
trong vô hạn kiếp sống mà chẳng đạt tới đâu cả. Sẽ chỉ có lặp lại.
Phải có móc nối,
truyền trao, giữa cuộc sống này và kiếp sống trước. Bất kì cái gì bạn đã đạt được
trong kiếp sống trước của bạn đền nên đi tới được biết, và bạn nên có khả năng
lấy bước tiếp tiến lên. Đó là lí do tại sao Phật và Mahavira đã thảo luận về vấn
đề các kiếp trước rất chi tiết. Điều này đã không được thực hiện bởi các thầy
giáo sớm hơn.
Các thầy giáo của
Veda và Upanishad đã nói mọi điều về tri thức tối thượng, nhưng họ đã không gắn
nó với khoa học về việc biết về các lần sinh trước. Vào thời Mahavira lấy việc
sinh thành, nhu cầu cho điều này đã trở thành rõ ràng. Rõ ràng là chỉ nói điều
bạn có thể trở thành là không đủ. Cũng cần phải nói bạn đã là gì, bởi vì không
có hỗ trợ và giúp đỡ của điều bạn đã là gì, tiềm năng của bạn không thể nở hoa,
bạn không thể trở thành cái mà bạn có thể trở thành.
Đây là lí do tại
sao toàn bộ bốn mươi năm trong kiếp sống của Mahavira và Phật đã được dành cho
việc cố gắng làm cho mọi người nhớ lại kiếp sống trước của mình. Chừng nào mà một
người còn không nhớ kiếp sống trước của mình, người đó được bảo rằng người đó
không cần bận tâm tới tiến bộ thêm của mình. Người đó trước hết nên thấy rõ
ràng con đường của mình và điểm mà tại đó người đó đã đạt tới, thế rồi tiến
thêm bước nữa. Bằng không sẽ chỉ có chạy ngược xuôi trên cùng con đường cứ đi
đi lại lại mà chẳng ích lợi gì. Đó là lí do tại sao việc nhớ lại các kiếp sống
trước trở thành bước đầu tiên tuyệt đối không thể nào tránh khỏi.
Ngày nay khó
khăn là thế này: không khó lắm để làm cho bạn nhớ các lần sinh trước của mình,
nhưng điều đó cần dũng cảm đã bị mất. Có thể làm cho bạn nhớ lại các lần sinh
trước của bạn chỉ nếu bạn đã đạt tới khả năng vẫn còn không bị rối loạn trong
đám sương mờ của chính những kí ức rất khó khăn của cuộc sống này. Bằng không
điều đó là không thể được.
Kí ức về lần
sinh này không thật là khó lắm để vượt qua, nhưng khi kí ức về kiếp sống trước
quật vào bạn, nó sẽ rất khó khăn. Trong khi kí ức về kiếp sống này tới trong sự
lần lượt, thì kí ức về các kiếp sống trước quật vào bạn trong sự toàn bộ của
chúng.
Trong cuộc sống
này, điều chúng ta chịu đựng hôm nay sẽ bị quên đi vào ngày mai và điều chúng
ta chịu đựng ngày mai sẽ bị quên đi vào ngày kia. Nhưng kí ức về các kiếp trước
của bạn sẽ quật vào bạn trong tính toàn bộ của chúng, không trong từng mẩu mảnh.
Bạn liệu có khả năng chịu đựng nổi nó không? Bạn thu được khả năng chịu đựng kí
ức về các kiếp quá khứ chỉ khi bạn có khả năng chịu đựng những điều kiện tồi tệ
nhất của cuộc sống. Bất kì cái gì xảy ra cũng vậy, không cái gì tạo ra khác biệt
cho bạn.
Khi không kí ức
nào của cuộc sống này có thể gây cho bạn lo âu, chỉ thế thì bạn mới có thể được
đưa vào trong kí ức của các kiếp quá khứ. Bằng không những kí ức này có thể trở
thành chấn thương lớn cho bạn, và cánh cửa tới những chấn thương đó không thể
được mở ra chừng nào bạn chưa có khả năng và xứng đáng để đối diện với chúng.
Xem tiếp Chương 3 – Quay về
Mục lục